Triết lý sống

Phàm làm việc gì trước phải suy xét đến hậu quả của nó
Hành động của người quân tử là giữ tĩnh lặng để tu thân, cần kiệm để dung dưỡng đức độ. Không đạm bạc thì không thể có trí tuệ sáng suốt, không yên tĩnh thì không có chí vươn xa. Học thì phải cần yên tĩnh, muốn có tài năng phải học; không học thì không biết rộng, không có chí thì việc học không thành.

Mong muốn lan man thì không thể nảy sinh cái tinh túy, vội tìm cái hiểm hóc thì không nắm được cái thực tình. Thời gian tuổi tác qua nhanh, ý chí cùng ngày tháng trôi đi trở thành khô héo, phần lớn không tiếp cận được với thời đại, rồi buồn tủi nơi lều nát, sao còn khôi phục lại kịp cái chí hướng được nữa !

Sunday, December 26, 2010

THÔNG TIN VÀ ĐỘNG CƠ: Nền Kinh Tế của những củ cà rốt và cây gậy (phần 5)

HỆ THỐNG THÔNG TIN KHÔNG CÂN XỨNG
Mô hình thuế mà chúng ta đang xem xét chỉ là một trường hợp trong đó tồn tại sự không đối xứng về thông tin giữa cơ quan nhà nước (chính phủ) và tác nhân hoặc những tác nhân (người tiêu dùng). Những cá nhân người tiêu dùng biết nhiều về năng lực của họ hơn là chính phủ. Chính phủ có thể tự nghĩ rằng họ đang làm việc với đại diện của người tiêu dùng, nhưng không biết loại người tiêu dùng đó. Có nhiều quan hệ kinh tế thuộc về quan hệ uỷ thác/đại lý, đặc biệt là quan hệ người sử dụng/người lao động. Phương pháp phân tích mà tôi đã nêu ra được áp dụng khi hoạt động của người đại lý có thể quan sát được và có thể xác định được, nhưng người đại lý biết nhiều hơn người uỷ thác, ví dụ như mối quan hệ giữa nỗ lực không thể quan sát được và hoạt động. Adam Smith đã biết rằng có một vấn đề (mặc dù ông không đề cập đến một cách rõ ràng sự không chắc chắn tạo ra một khả năng lẩn tránh):
Điều thú vị là mọi người cố gắng sống theo điều kiện của mình một cách tốt nhất có thể ; và nếu mức lương của anh ta giống nhau một cách chính xác, liệu rằng anh ta có, hoặc không có thực hiện một số trách nhiệm lao động, đó ch ắcn ch ắn là lợi ích của anh ta, ít nhất đó là thứ lợi ích được hiểu một cách tầm thường, hoặc nếu anh ta có một số thẩm quyền khiến anh ta không phải làm điều đó, thực hiện nó một cách bất cẩn và cẩu thả mà thẩm quyền đó cho phép. (Sự giàu có của các Quốc gia)
Có người nghĩ rằng anh ta quá không quan tâm đến hệ thống khuyến khích tiền tệ, nhưng cần nhớ rằng thẩm quyền có thể là một sự mô tả tốt về mối quan hệ đó. Hệ thống thanh toán tối ưu, với thông tin không đối xứng, có thể có đặc điểm độc đoán, nếu nó chỉ ra rằng việc thanh toán tăng lên rất nhanh tương ứng với mức độ của các nhóm mức lương, và chậm đi với nhóm thu nhập thấp, và không tăng lên nhiều lắm với nhóm có thu nhập cao. Điều đó gần giống với nguyên tắc sau đây: Làm cái này hoặc cái kia. Đó là một đặc điểm thú vị của những đường được cho là tối ưu trong vấn đề thuế thu nhập là tiêu dùng không bao giờ tăng nhanh hơn thu nhập (tương đương với, tỷ suất thuế biên không bao giờ âm). Khả năng có thể nhất, một mối quan hệ khó khăn không bao giờ trở thành tối ưu trong thực tế với thông tin không cân đối. [7]
Quan hệ lao động phát sinh những khả năng thú vị mới, như là việc thanh toán liên quan đến hoạt động của những người khác. Sẽ không đáng để làm việc nếu hai người hoàn toàn không liên quan đến nhau, trong đó khả năng của họ cũng không tương xứng. Khi họ tương xứng với nhau, và các tác nhân này lại không kết hợp được với nhau, có một phạm vi thực tế cho việc thanh toán tuỳ thuộc vào mức độ của quan hệ hoạt động của các tác nhân.
Chúng ta có thể không chờ đợi chính phủ ban hành những loại thuế, mà điều đó lại phụ thuộc vào thu nhập của những người hàng xóm của chúng ta (hoặc những đối thủ cạnh tranh rất xa) cũng như vào thu nhập của chúng ta. Nhưng những khả năng đó đã đóng một vai trò quan trọng trong một mô hình phát triển hơn so với mô hình đơn giản với thông tin không đối xứng như đã mô tả ở trên. Các tác nhân có thể được yêu cầu lựa chọn giữa những thông tin phức tạp hơn là những gì chúng ta sử dụng để mô tả hoạt động đơn giản hoặc thu nhập của họ. Maskin (1985) đã đưa ra ý tưởng về việc yêu cầu mọi người tự đặt mình vào việc phân phối toàn bộ khoản lương, trong khi phải đối diện với những yếu tố có tính trừng phạt một cách nghiêm khắc đối với bất kỳ câu trả lời không phù hợp nào. Bằng cách đó, ông có thể thực tiến hành được sự tối ưu đầu tiên. Lý thuyết đó thực sự đòi hỏi thông tin giữa những tác nhân, nhưng Piketty (1993) đã phát triển một phương thực dễ chấp nhận hơn để đạt được sự tối ưu tốt nhất cũng nằm trong phạm vi ý tưởng đã được đưa ra. Mô hình đơn giản của khuyến khích cạnh tranh không hề làm giảm đi cơ chế khuyến khích có thể trong hoàn cảnh của thông tin không đối xứng.
Trong số những ứng dụng ở lĩnh vực khác của thông tin không đối xứng là việc kiểm soát những tập đoàn bởi những người cầm quyền (người quản lý nhà nước, ban hành luật), và định giá bằng những sự thoả dụng. Trong từng hướng phát triển thú vị đó, trước hết là Baron và Myerson (1982), và sau đó là Laffont và Tirole (1993) đã chỉ ra làm thế nào một người có thể phân tích sự điều chỉnh bằng cách bằng cách xem các tập đoàn (doanh nghiệp) như là những tác nhân (đại lý), những người biết được cơ cấu vốn của doanh nghiệp đó, và những người cầm quyền, người không chắc chắn về những chi tiêu của doanh nghiệp, người không chắc chắn về chi phí của doanh nghiệp. Sản phẩm của doanh nghiệp và giá cả mà doanh nghiệp đó đặt ra đối với những sản phẩm đó liên quan đến nhu cầu của thị trường, và đó là thông tin công khai. Một cách để suy nghĩ về sự điều chỉnh là phải có thuế về sản phẩm thay đổi. Điều này có thể được phân tích bằng cách sử dụng những phương pháp mà tôi đã nêu ra.
Tương tự, những thoả dụng cũng làm cho người tiêu dùng thay đổi những ưu tiên, và có thể liên kết giá cả với số lượng được sử dụng theo một cách thức phức tạp. Như trong mô hình điều chỉnh, có rất nhiều sản phẩm, và một người sẽ xem xét việc định giá đồng bộ của tiêu dùng tại các thời điểm khác nhau. Điều này thực sự khó khi sở thích của người tiêu dùng thay đổi một cách phức tạp, đa chiều. Phương pháp đơn giản mà tôi đã mô tả trở nên kém hiệu quả khi áp dụng vào những vấn đề đa chiều như thế, nhưng Wilson (1993) và Armstrong (1996) đã tạo nên một tiến bộ đáng kể trong việc giải quyết những vấn đề như thế này.
Trong tất cả những phạm vi ứng dụng này, chiều thời gian đóng vai trò quan trọng. Quay trở lại vấn đề hệ thống thuế, có thể thấy được những vấn đề mới và rắc rối nảy sinh. Chúng ta có thể nghĩ về việc đánh thuế theo từng thế hệ, hoặc những nhóm người, theo cách phù hợp với họ. Mỗi thế hệ, mỗi tầng lớp sẽ có phần đóng góp của mình, nhưng chúng ta có thể xác định được rõ ràng năm sinh, và sử dụng nó làm cơ sở để đánh thuế. Do đó, về mặt lý thuyết chúng ta có thể xem như có một hệ thống thuế khác nhau cho mỗi nhóm. Các chính phủ không làm như vậy, và tôi sẽ quay trở lại vấn đề tại sao và chúng ta có nên chấp nhận chỉnh phủ làm như vậy.

No comments:

Post a Comment