Triết lý sống

Phàm làm việc gì trước phải suy xét đến hậu quả của nó
Hành động của người quân tử là giữ tĩnh lặng để tu thân, cần kiệm để dung dưỡng đức độ. Không đạm bạc thì không thể có trí tuệ sáng suốt, không yên tĩnh thì không có chí vươn xa. Học thì phải cần yên tĩnh, muốn có tài năng phải học; không học thì không biết rộng, không có chí thì việc học không thành.

Mong muốn lan man thì không thể nảy sinh cái tinh túy, vội tìm cái hiểm hóc thì không nắm được cái thực tình. Thời gian tuổi tác qua nhanh, ý chí cùng ngày tháng trôi đi trở thành khô héo, phần lớn không tiếp cận được với thời đại, rồi buồn tủi nơi lều nát, sao còn khôi phục lại kịp cái chí hướng được nữa !

Sunday, December 26, 2010

THÔNG TIN VÀ ĐỘNG CƠ: Nền Kinh Tế của những củ cà rốt và cây gậy (phần 2)

HỆ THỐNG THUẾ
Chính xác vấn đề là gì Nói chung, và trong thực tế, sự phân phối lại của các tài sản được yêu cầu bởi định lý phúc lợi thứ nhất, những thông tin cần thiết chính phủ không thể có được. Chính quyền lý tưởng (tưởng tượng) này phải biết được những người dân giàu nào mà họ có, và điều gì họ có thể làm, trước khi họ (chính phủ) có thể biết được phải cho đi bao nhiêu và lấy đi bao nhiêu. Nếu mọi người biết được chính phủ cần các thông tin đó, họ có thể che dấu đi bằng cách này hay cách khác, nếu điều đó có lợi cho họ. Những yêu cầu thông tin cần thiết trong định lý phúc lợi thứ hai không thể được hoàn thiện. Việc chuyển từ hoặc chuyển đến một người phụ thuộc vào những đặc điểm của người đó, không phải cư xử của anh ta, được biết đến như là sự chuyển đổi trọn gói. Sự chuyển đổi trọn gói mong muốn, trong thực tế, là điều không thể, bởi vì chúng đòi hỏi những thông tin không có sẵn. Nỗ lực để thực hiện chúng có thể sẽ phá huỷ các giá trị của các thông tin mà họ dựa vào.
Theo hướng suy nghĩ đó, giữa những năm sáu mươi, Piter Diamond và tôi đã bị thuyết phục rằng một người có thể suy nghĩ về phúc lợi kinh tế và chính sách kinh tế trong bối cảnh của nền tài chính công. Trước hết chúng ta nghiên cứu mô hình kinh tế tổng quát, trong đó chính phủ không thể thực hiện được sự chuyển đổi trọn gói [3]. Rõ ràng rằng điều đó đã đi quá xa, và chúng tôi đã tiếp tục cho phép rằng chính phủ có thể sử dụng các loại thuế trọn gói thống nhất, hoặc hợp lý hơn, những khoản trợ cấp. Mặt khác chính phủ phải sử dụng các khoản thuế, thuế từ quan điểm của lý thuyết phúc lợi thuần tuý được xem như một sự méo mó. Đây là mô hình trong đó tất cả những người tiêu dùng và người sản xuất là những người chấp nhận giá, nhưng họ không nhất thiết phải đối mặt với những mức giá giống nhau, bởi vì tỷ suất thuế không thể làm cho hai bên của một giao dịch phải tiếp diện với các mức giá khác nhau. Đó là một mô hình truyền thống, có hành vicạnh tranh của các tác nhân tư nhân; nhưng đó là một nền kinh tế bị bóp méo, và sự bóp méo đó có thể là tối ưu. Và đó là điều mà chúng tôi muốn nghiên cứu.
Trước đó đã có một tác phẩm nói về sự méo mó của thuế khoá. Lý thuyết này được khởi xướng bởi Frank Ramsey (1927), theo đề nghị của A.C Pigou. Ông đã xem xét một nền kinh tế gồm những người tiêu dùng đồng nhất và giả định rằng thu nhập chính phủ tăng lên hoàn toàn thông qua các khoản thuế đối với hàng hoá. Sau đó, M. Boiteux (1956), ở Pháp, đã phát triển một cách độc lập lý thuyết đồng đẳng của việc đặt giá bởi sự thoả dụng công cộng với lợi nhuận bằng không là nhân tố hạn chế, trong một nền kinh tế mà sự chuyển đổi trọn gói hoàn hảo xảy được cho là xảy ra một cách nghịch lý. Và Serge-Christophe Kolm (1971) đã phát triển một lý thuyết tổng quát có tính hệ thống.
Điều lý thú trong câu chuyện mà tôi kể ra ở đây loại lý thuyết mà chúng tôi đã phát triển, chứ không phải là nội dung và những hàm ý của nó. Đó là lý thuyết về một nhà nước mà những hành động của nó là một chức năng của điều mà nó có thể quan sát được. Không một sự quan sát nào về bản chất của những người tiêu dùng cá nhân được giả định là có sẵn, mà chỉ những quan sát về ứng xử của họ. Ví dụ chính của điều đó là một loại thuế hàng hoá, nó tạo ra một tỷ lệ thu nhập trong số hàng hoá mà người tiêu dùng chọn mua. Việc lựa chọn chính sách có tính đến phản ứng của người tiêu dùng đối với sự thay đổi của thuế, đặc biệt là sự thay đổi số lượng mua bán. Một sự trợ cấp trọn gói thống nhất không yêu cầu bất kỳ một thông tin nào, và do đó được cho phép. Chúng tôi nói rằng, những công cụ chính sách này là sự tương hợp khích lệ: nhà nước có tính đến đầy đủ các phản ứng vì lợi ích cá nhân của mọi người đến hệ thống thuế.
Có một khía cạnh, ở đó thông tin về các đặc điểm của người tiêu dùng là cần thiết, sự phân phối của những đặc tính này trong phạm vi dân số. Nhà nước bằng cách nào đó biết được sự phân phối này. Về nguyên tắc nhà nước có thể biết được điều này bằng cách đi hỏi từng người, hoặc trắc nghiệm họ theo các cách đa dạng khác nhau. Bởi vì thông tin được sử dụng dưới dạng cô đọng (tổng hợp), một cá nhân sẽ chẳng có gì để mất (hoặc có lợi) khi nói với chính phủ sự thật. Chỉ khi trách nhiệm thuế cá nhân bị tác động bởi sự tiết lộ này thì sự khuyến khích cạnh tranh bị vi phạm. Chúng tôi đã giả sử rằng, nhà nước sẽ thu nhận và sử dụng mô hình kinh tế toán về người tiêu dùng, trong đó sự phân phối những nhóm người tiêu dùng-mối quan tâm của họ đến các loại hàng hoá khác nhau, đặc điểm cung cấp lao động của họ có thể được ước đoán từ ứng xử của một người tiêu dùng mẫu. Việc tính toán thuế tối ưu và xu hướng mong muốn của việc thay đổi thuế đã xảy ra theo cách đó. Một người có thể dứt khoát cho phép những sự không chắc chắn này về sự phân phối các đặc tính trong dân số, với các vấn đề cân bằng ngân sách mà nó đặt ra, nhưng chúng ta không nghi ngờ về cái gọi là sự rắc rối nhỏ.
Điều này sau đó là một mô hình với thông tin không đối xứng, ở đó, khi chính sách của nhà nước được xác định, những cá nhân người tiêu dùng biết nhiều hơn về sở thích và khả năng của họ hơn là điều mà chính phủ biết. bởi vì tất cả những tham số chính sách có thể được đề cập đến trong mô hình đó, điều đó rất chung chung. mà điều chung chung thì không được tận dụng một cách đầy đủ.
THUẾ THU NHẬP
Sẽ là thú vị nếu chúng ta đi vào chi tiết hơn, và nghiên cứu một mô hình kinh tế cụ thể hơn có một số đặc điểm nổi bật của một nền kinh tế thực sự. Một mô hình như thế vẽ nên bức tranh của một nền kinh tế vô tận, trong đó dân chúng tận dụng một loại hàng hoá tiêu dùng duy nhất, và cung ứng lao động. Như đã đề cập ở trên, William Vickrey đã nêu ra vấn đề thuế tối ưu cho mô hình đó, mặc dù ông đã không thể giải quyết vấn đề này. Trong mô hình như thế, sự phân phối lại các khoản thuế có thể được mô tả một cách đơn giản là thuế thu nhập, có ảnh hưởng đến việc quyết định tiêu dùng của mỗi cá nhân như là một hàm của thu nhập cá nhân đó.
Quan điểm về hệ thống thuế thu nhập thì thuế có thể là một hàm cực kỳ phức tạp của thu nhập: thuế không cần phải tương ứng với thu nhập, và trong thực tế thì điều này ít xảy ra. Trong một nền kinh tế thực sự, thu nhập bao gồm nhiều yếu tố. Chúng ta dễ dàng phân biệt được thu nhập từ lao động với thu nhập từ vốn tài sản, ít nhất là về mặt khái niệm. (trong thực tế, đặc biệt là đối với những người tự doanh, sự phân biệt khó có thể thực hiện được; và thu nhập ròng từ vốn, bao gồm cả việc cho thuê nhà, tự bản thân nó cũng khó để xác định.) Sau đây, tôi giả định rằng chúng ta chỉ xem xét về thu nhập từ lao động. Thu nhập từ lao động có thể bị đánh thuế một cách phi tuyến. Do đó một số loại hàng hoá khác, như là gọi điện thoại, điện và những cái khác. Một hệ thống thuế phi tuyến đầy đủ, như hệ thống thuế hữu tuyến, là sự khuyến khích cạnh tranh: việc tính thuế vẫn dựa trên hành vi có thể quan sát được một cách công khai của người tiêu dùng. Giả định là sự phi tuyến sẽ là một lợi thế, bởi vì nó tổng quát hơn hế thống thuế hữu tuyến.
Trên thực tế, không ai có thể nói trước được rằng phi tuyến có lợi thế như thế nào. Hầu hết các nước có các mức thuế suất biên khác nhau đối với thu nhập từ lao động, và trong hầu hết các trường hợp luật thuế thu nhập xác định rõ thuế suất biên tăng lên theo thu nhập. Cũng có những yếu tố khác trong bảo hiểm xã hội và những thoả thuận thuế của nhiều nước có dạnh giống như thuế thu nhập, ví dụ như bảo hiểm thất nghiệp, hoặc thoả thuận hỗ trợ người có thu nhập thấp. Trong nhiều trường hợp, những điều này có tác động tạo nên một mức thuế suất biên khá cao đối với những khoản thu nhập thấp: những lợi ích bị giảm đi khi thu nhập tăng lên, và đôi khi là một đổi một. Do đó, hệ thống thuế điển hình thực sự có mức thuế suất biên cao đối với mức thu nhập thấp và đối với thu nhập cao, tỷ suất thuế biên thấp đối với mức thu nhập trung bình. Việc nghĩ đến hầu hết các loại thuế là việc tạm thời, thay vì nghĩ về thuế đối với thu nhập từ tài sản, khi tính thuế đối với thu nhập từ lao động: có thể đúng nếu hàng tiêu dùng khác nhau bị đánh thuế ở mức tỷ suất giống nhau. Tại bất cứ một tỷ suất thuế nào, một người cũng có thể ước lượng hệ thống thuế thực tế gần đúng.
Bước tiếp theo khi nghĩ về một hệ thống thuế tối ưu, thật nghịch lý, là suy nghĩ một cách rõ ràng về thuế suất, và thay vì suy nghĩ về những phân bổ của các hàng hoá thực sự và lao động. Để cho thuận lợi hãy suy nghĩ về sự tối ưu như là trong nền kinh tế học phúc lợi, mà từ đó tất cả những công việc này đã bắt đầu, nhưng giờ đây đã có một hạn chế mới, sự khuyến khích cạnh tranh, bên cạnh khó khăn sự phân bổ có thể là khả thi. Ý nghĩ về sự khuyến khích cạnh tranh chuyển đổi bởi chính phủ đã bị ràng buộc bởi suy nghĩ về thuế suất. Nhưng điều đó thực sự còn hơn một ý nghĩ cơ bản. Vấn đề đặt ra là: sự phân bổ nào là khả thi nếu chính sách là khuyến khích cạnh trang Tốt nhất nên suy nghĩ về điều này trong một mô hình cụ thể, nhưng trong thực tế câu trả lời hoá ra rất đơn giản khi ở trong một mô hình tổng quát.
(Còn tiếp)

No comments:

Post a Comment