Triết lý sống

Phàm làm việc gì trước phải suy xét đến hậu quả của nó
Hành động của người quân tử là giữ tĩnh lặng để tu thân, cần kiệm để dung dưỡng đức độ. Không đạm bạc thì không thể có trí tuệ sáng suốt, không yên tĩnh thì không có chí vươn xa. Học thì phải cần yên tĩnh, muốn có tài năng phải học; không học thì không biết rộng, không có chí thì việc học không thành.

Mong muốn lan man thì không thể nảy sinh cái tinh túy, vội tìm cái hiểm hóc thì không nắm được cái thực tình. Thời gian tuổi tác qua nhanh, ý chí cùng ngày tháng trôi đi trở thành khô héo, phần lớn không tiếp cận được với thời đại, rồi buồn tủi nơi lều nát, sao còn khôi phục lại kịp cái chí hướng được nữa !

Sunday, December 26, 2010

Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản

Harry M. Cleaver, Jr.

Dịch Viên: Nhân Thụy

Malthus với vấn đề "tình trạng thừa thải quá mức" hay "cơn khủng hoảng"

Tuy những lý lẽ của Malthus phần lớn có biện hộ cho chế độ tư bản trong xã hội, nhưng ông vẫn không mù quáng đến nỗi không thấy được mô hình này đang phát triển không đều và ông chính là người đầu tiên nhận thấy được nó đang đối mặt với một vấn đề tái diễn là thị trường đã quá tải và vấn đề những cơn khủng hoảng thừa, tức là xãy ra tình trạng thất nghiệp, sự suy sụp về tài chính, v.v.… Đối với những nhà kinh tế cổ điển cùng thời thì quan điểm này của ông bị xem như một quan điểm lập dị.

Như chúng ta đã biết qua với Adam Smith, tầm nhìn của các nhà kinh tế cổ điển chỉ trong phạm vi là thị trường và cơ cấu định giá của nó hoạt động nhằm mang đến sự phân bổ những nguồn tài nguyên và hàng hoá cho xã hội một cách trơn tru dễ dàng. Có thể đây là tình trạng sụp đổ tạm thời hoặc giả chỉ đối với ngành mậu dịch, ví dụ như các nhà sản xuất các sản phẩm may mặc có thể ước lượng nhu cầu về mặt hàng của họ quá mức và do đó tạm thời "cung cấp quá mức" cho thị trường, nhưng trong trường hợp như vậy người ta sẽ tin rằng mức cung gia tăng liên quan đến mức cầu sẽ làm mức giá giảm xuống và cũng sớm làm cho cung liên kết trở lại với cầu. Hoặc giả, giai đoạn tích luỹ quá nhanh có thể gia tăng mức lương trên mức bình thường, nhưng theo như Smith và Malthus, mức lương gia tăng như thế sớm muộn cũng dẫn đến tình trạng gia tăng nguồn cung lao động, và từ đó lại đẩy mức lương giảm lại.

Jean-Baptiste Say (1767-1832) là người thể hiện rõ tầm nhìn cổ điển này, ông cho rằng thị trường có thể loại bỏ tình trạng khủng hoảng, ông là một nhà kinh tế học người Pháp và rất ngưỡng mộ Adam Smith. Say đưa ra nhiều lập luận về vấn đề này trong chương XV, quyển I của tác phẩm Trait d'economie politique của ông:

"Chú ý rằng một sản phẩm sau khi làm ra sớm muộn cũng được tung ra thị trường mà trong đó đã đầy các sản phẩm khác. Khi nhà sản xuất đó hoàn tất sản phẩm của mình, ông ta chỉ quan tâm đến việc làm sao để bán sản phẩm ra ngoài ngay lập tức để cho nó không bị mất giá nếu bị tồn kho. Ông ta cũng không ít quan tâm đến việc dùng số tiền mà ông ta có để sản xuất ra nó; bởi vì giá trị của đồng tiền cũng sẽ bị giảm. Nhưng cách duy nhất để tiêu thụ số tiền đó là mua món hàng khác. Do vậy chỉ trong trường hợp tạo ra một sản phẩm sẽ lập tức mở ra một lối thoát cho những sản phẩm khác."

Những phát biểu như thế đã phổ biến đến tầm nhìn của thị trường và dẫn đến mọi người thườg xuyên tham khảo cái gọi là "Quy luật Say", nghĩa là "mức cung sẽ tự tạo ra mức cầu cho riêng nó" (supply creates its own demand) điều này như một chân lý hiển nhiên về hành vi của nền kinh tế thị trường nói chung -- nếu không phải nằm trong trường đặt biệt. Mặt khác, Malthus xem xét đến thực tiễn vấn đề tư bản chủ nghĩa trong thời của ông ta và thấy được những vấn đề đang nổi cộm lên mà sau này những nhà kinh tế gọi là "chu kỳ kinh doanh" hay bằng một cái tên ít lạc quan hơn "những cơn khủng hoảng". Ông thấy rằng những chu kỳ hay cơn khủng hoảng như thế không có giới hạn trong một thị trường đặc biệt nào cả, cũng như Smith, ông tin rằng nếu chúng xãy ra thường xuyên thì chính những người như công nhân, thương buôn, ngân hàng, v.v.... sẽ phải gánh hậu quả. Ông lập luận rằng dù có phải như vậy hay không thì con người phải nhận thức được sự tồn tại về những gì đang tái diễn trở lại, những gì mà ông gọi là "khủng hoảng thừa phổ biến" và định nghĩa của nó như sau:

"Khủng hoảng thừa được xem là phổ biến bắt nguồn từ nguồn cung thừa thải quá mức hay do mức cầu giảm đi, một lượng hàng hoá đáng kể bị giảm giá trị xuống thấp hơn cả chi phí cơ bản được bỏ ra để sản xuất ra nó"

Quan điểm của Malthus về "khủng hoảng thừa" gây nên một cuộc tranh luận giữa ông và những người bạn của ông cũng như với nhà kinh tế David Ricardo - đồng nghiệp của ông. Như chúng ta thấy rằng đây không chỉ là vấn đề duy nhất mà ông và Ricardo không có cùng một quan điểm.

David Ricardo

Trong khi Thomas Malthus giảng dạy tại tại một ngôi trường do một công ty lớn nhất thời đó lập ra, thì David Ricardo (1772-1823) là con của một doanh nhân và chính ông cũng là một doanh nhân giàu có và chơi cổ phiếu. Trong số những nhà kinh tế ít quan tâm đến lịch sử tư duy kinh tế, Ricardo được xem như một nhà kinh tế "cổ điển" quan trọng xếp thứ hai sau Adam Smith. Sở dĩ ông có danh tiếng như thế một phần bắt nguồn từ những quan điểm có giá trị của ông về những vấn đề quan trọng, nhưng nguyên nhân chính là bắt nguồn từ cách mà ông đưa ra những lý lẽ của mình dưới hình thức những mô hình kinh tế về mặt lý thuyết. Không giống như những bài viết của Smith hay thậnm chí của Malthus, những bài viết của Ricardo được thể hiện tương đối xúc tích ngắn gọn mà không có nhiều minh hoạ bằng những chi tiết lịch sử hay nói lạc hướng sang những vấn đề thứ yếu khác. Trong cuốn Tài sản quốc gia của mình, Smith có nói lướt qua khía cạnh lịch sử con người, thì trong cuốn Những Quy Luật Về Kinh Tế Chính Trị Và Hệ Thống Thuế, Ricardo chỉ tập trung vào vấn đề của mình. Căn cứ vào sự yêu chuộng các mô hình mang tính chính xác của các nhà kinh tế cùng thời, ta dễ dàng thấy được nguồn gốc những gì mà ông ta thường bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên ngoài những vấn đề về phương pháp luận, thì những điểm nổi bật các tác phẩm của Ricardo chính là nó đã chuyển từ quan điểm của Smith tập trung vào việc làm ra tài sản bằng phương pháp đầu tư và tích luỹ nay chuyển sang một hướng khác là tập trung vào việc phân phối những gì được sản xuất ra. Ricardo đã nêu rõ điều này ngay trong phần mở đầu của quyển Những Quy Luật:

Để xác định những quy tắc nào sẽ chi phối đến việc phân phối này phải dựa vào vấn đề chính trong kinh tế chính trị: khi khoa học ngày càng phát triển cùng với những bài viết của Turgot, Stuart, Smith, Say, Sismondi, và những người khác, thì họ chỉ cung cấp được một lượng thông tin ít ỏi liên quan đến những vấn đề tự nhiên thường ngày như tô thuế, lợi nhuận, và tiền lương."

Nói cách khác, vấn đề mà Ricardo quan tâm đến là làm sao xác định được sự tiến triển tương đối của tô thuế, lợi nhuận, và tiền lương qua nhiều năm. Như chúng ta thấy, Smith đã nói rằng tiền lương có khuynh hướng thay đổi bất thường theo mức sống và lợi nhuận có khuynh hướng giảm và tăng chậm vì nền kinh tế đã phát triển hoàn chỉnh, nhưng ông đã không đưa ra một lý thuyết hợp lý nào về những khuynh hướng như thế. Mặc khác, đối với vấn đề những giới hạn khả năng sản xuất nông nghiệp theo sự phát triển của dân số mà ông đang quan tâm, Malthus đã đưa ra một lý thuyết về khuynh hướng chuyển biến của tô thuế - Ricardo cũng chấp nhận thuyết này, ông cho rằng do ngành trồng trọt chuyển từ những mảnh đất màu mở sang những mảnh đất ít màu mở hơn cho nên tỉ số sinh lời giữa chúng sẽ trở nên chênh lệch nhau và do đó tô thuế giữa chúng cũng sẽ khác nhau.

Trong chương 2 quyển Những Quy Luật, Ricardo có nói:

"Sở dĩ như vậy là do số lượng đất đai bị hạn chế, độ màu mở thì không đồng đều và cũng do trong quá trình phát triển của dân số, những loại đất xấu hay nằm ở những vị trí bất lợi đều được sử dụng cho mục đích trồng trọt, mà khi sử dụng những loại đất như thế thì bao giờ cũng phải trả thuế cả. Trong quá trình phát triển của xã hội, khi loại đất thứ cấp được đưa vào sử dụng cho mục đích trồng trọt, thì tô thuế lập tức bắt đầu tính với loại đất có độ phì nhiêu nhất, và số lượng tô thuế bao nhiêu sẽ tuỳ thuộc vào sự khác biệt ở độ màu mở giữa hai loại đất này."

Cũng tương tự vậy, Ricardo cho rằng nếu vẫn đầu tư thêm vốn và nhân công cho những mảnh đất đang sử dụng, dù cho lợi nhuận có giảm thì tô thuế vẫn phát sinh nhiều:

"Trước khi đất loại 2, 3, 4, hay 5 hay đất xấu bạc màu được sử dụng trong nông nghiệp thì vốn có thể đầu tư một cách hữu hiệu vào những loại đất như thế những loại đất đã được sử dụng vào mục đích trồng trọt, điều này vẫn thường xãy ra và thực chất nó rất phổ biến. Có lẽ người ta sẽ nhận thấy rằng bằng cách tăng gấp đôi số vốn vào đất loại 1, mặc dù sản lượng không tăng gấp đôi, thì nó cũng không tăng đến 100 góc tạ (ở Anh; bằng 12,70 kg), nhưng cũng tăng khoảng 85 góc tạ, và sản lượng này vượt xa sản lượng mà đất loại 3 mang lại khi được đầu tư cùng một số vốn như vậy. Trong trường hợp như thế, số vốn tốt hơn nên đầu tư vào những loại đất mà mình đã sử dụng và số tô thuế phát sinh sẽ bằng nhau; bởi vì số tô thuế chính là hiệu số giữa sản lượng đạt được với số lượng tương ứng về vốn và nguồn lao động."

Do sự tích luỹ tư bản cùng với sự phát triển ồ ạt của dân số đã khiến cho ngành trồng trọt liên tục chuyển từ những mảnh đất tốt hơn sang những mảnh đất nghèo nàn hơn, hay do chi phí đầu tư vào số lượng đất giới hạn ngày càng tăng, thì hậu quả tất yếu là làm giảm lợi nhuận và làm tô thuế liên tục gia tăng, và do đo một phần sản lượng của quốc gia sẽ vào tay của tầng lớp địa chủ.

Nhưng Ricardo đồng tình với quan điểm của Malthus là tiền lương ở mức vừa đủ sống cố định hay không (hoặc giả tăng chậm do yêu cầu tái sản xuất của tầng lớp lao động gia tăng) là do sự phát triển của dân số. Nói cách khác, nếu tiền lương tăng so với "mức giá tự nhiên" của sức lao động (tức là so với mức vừa đủ sống) thì cuộc sống người công nhân sẽ khá hơn, số lượng công nhân sẽ tăng và tiền lượng lại sẽ giảm. Tương tự thế, nếu lương giảm dưới mức bình thường, thì số lượng công nhân sẽ giảm và lương lại sẽ tăng. Đây cũng là vấn đề mà Ricardo quan tâm (trong chương 2 quyển Những Quy Luật của ông):

Đó là khi giá lao động thị trường vượt qua mức giá bình thường của nó, điều kiện làm việc tốt và vui vẻ, người lao động có quyền đòi hỏi nhiều hơn về những nhu cầu thiết yếu cho họ và tận hưởng cuộc sống, và do đó họ có thể nuôi cả một gia đình đông đúc khoẻ mạnh. Tuy nhiên với những điều kiện động viên như thế - lương tăng cao cho số người tăng lên - thì số lượng công nhân tăng lên, lương lại giảm xuống mức cơ bản, và thật vậy từ sự phản tác dụng đôi khi làm nó giảm đi.

Khi giá lao động thị trường giảm xuống so với mức cơ bản, điều kiện làm việc thì kém: do đó cái nghèo đã tước đi những thứ tiện nghi thiết yếu đã trở thành quá quen của họ. Và nảy sinh ra tình trạng sau đó, sự thiếu thốn của họ làm giảm đi số nhân công, hay nói cách khác nhu cầu về lao động tăng lên, giá lao động thị trường lại tăng so với mức giá cơ bản, và người lao động sẽ có được những tiện nghi vừa phải mà mức lương cơ bản mang đến."

Lưu ý: do đó Ricardo đồng tình quan điểm với Malthus khi công kích Luật Tế Bần của Anh và kêu gọi huỷ bỏ nó hoàn toàn và tạo một thị trường lao động tự do.

Do đó nếu tô thuế tăng và lương giữ nguyên không đổi, thì lợi nhuận sẽ bị mức tô thuế tăng và mức lương giữ nguyên đó (hoặc tăng) chèn ép và sẽ giảm đi. Bởi vì lợi nhuận là phương tiện dùng cho đầu tư nên với khuynh hướng giảm lợi nhuận như thế sẽ thật sự làm cho tình trạng sản xuất càng trở nên trì trệ.

Như Ricardo kết luận trong chương 6 về vấn đề lợi nhuận:

"Khuynh hướng tự nhiên của lợi nhuận là giảm xuống do quá trình phát triển của dân số và tài sản, phần lượng thực phẩm tăng thêm chỉ có thể đạt được do sự hy sinh ngày càng nhiều của tầng lớp lao động. […] tỉ lệ lợi nhuận thấp như thế sẽ kìm hãm sự tích luỹ và hầu như là kìm hãm sản lượng chung của cả nước, sau khi trả lương, thì sẽ là tài sản của chủ đất và của những người thu thuế thập phân và những loại thuế khác."

Do vậy, những lý thuyết về lương, lợi nhuận, và tô thuế của Ricardo làm cho viễn cảnh tương lai của tư bản chủ nghĩa thậm chí còn ảm đạm hơn những gì mà Malthus nói. Không chỉ người nghèo không thể giàu có mà cả những nhà tư bản cũng thế. Chỉ có địa chủ là hưởng lợi và với sự phát triển của lợi nhuận như vậy thì chỉ làm cho họ trắng tay do lợi nhuận giảm cũng làm cho đầu tư giảm theo và sản xuất đình trệ.

Vấn đề "khủng hoảng thừa" Ricardo đã đồng tình với Quy Luật Say, và dùng nó như một lập luận chống lại ý kiến cho rằng khủng hoảng được tạo ra trong quá trình tích luỹ thông, mà Keynes gọi là "tổng mức cầu không thoả", tức là tổng mức cầu cho các loại hàng hoá không được thoả mãn đầy đủ dẫn đến sự cung ứng những loại hàng này cho thị trường. Ông ta cũng không sai khi nhận ra một vài thị trường có thể bị khủng hoảng thừa -trong thời của ông ta nó là vấn đề thường bị tái diễn - nhưng khủng hoảng đó không trở thành cuộc khủng hoảng phổ biến rộng khắp.

Trong quyển Những Quy Luật, chương 21 về "Những Hậu Quả Của Tích Luỹ Lợi Nhuận Và Lợi Tức", ông có đề cập đến vấn đề này:

Chúng ta dùng chính sản xuất hay dịch vụ để mua sản xuất; tiền chỉ là một phương tiện trao đổi trung gian hữu hiệu mà thôi. Khi một sản phẩm nào đó được làm ra quá nhiều thì thị trường của sản phẩm đó sẽ bị khủng hoảng thừa, để không phải hoàn lại số vốn đã bỏ ra cho sản phẩm đó; nhưng đây không phải là trường hợp chung cho tất cả các loại hàng hoá; mức cầu của bắp ngô giới hạn với số người ăn, mức cầu của giày dép và áo khoát giới hạn với số người mặc; thế nhưng cả

cộng đồng hoặc một phần có thể muốn tiêu thụ ngô cũng như nón và giày dép nhiều hơn. Một số người có thể tiêu thụ nhiều rượu hơn nếu họ có khả năng mua nó. Còn những người đã tiêu thụ đủ rượu rồi thì lại muốn mua hoặc nâng cấp chất lượng đồ đạc trong nhà. Những người khác thì muốn trang trí lại khu vườn hay xây nhà của họ to thêm. Ước muốn làm được những điều như thế đã khắc sâu vào mỗi con người chúng ta; để thực hiện chẳng cần gì ngoài phương tiện, để có được phương tiện chẳng cần gì ngoài gia tăng sản xuất. Nếu tôi có thức ăn và những thứ cần thiết tuỳ nghi sử dụng, thì tôi không phải chờ đợi để có được chúng như những người công nhân - những người mà đã đem đến cho tôi quyền được sở hữu những gì hữu dụng đối với tôi và những gì tôi muốn" (đây là vấn đề tôi quan tâm)

Việc bác bỏ khả năng khủng hoảng thừa là phổ biến lại bị Malthus bác bỏ bằng những lập luận riêng của mình, khi nhìn lại, đã biến ông trở thành những người khởi đầu cho dòng lập luận thiên về lý thuyết, những lập luận liên quan đến tầm quan trọng của vấn đề tích luỹ tổng mức cầu thoả đáng, những lập luận này hoạt động xuyên suốt từ thời của ông với những bài phê bình chủ nghĩa tư bản của Marx và John Hobson cho đến thời đại với những bài viết của những vị cứu tinh như John Maynard Keynes.

Trong phần III chuơng I tập I quyển Những Quy Luật Kinh Tế Chính Trị, ông nói lên sự phản bác của mình như sau:

"Một số tác giả tài năng nghĩ rằng mặc dù một loại hàng hoá nào đó dễ dàng bị khủng hoảng thừa, nhưng không phải tất cả các mặt hàng đều như vậy; bởi vì theo như quan điểm của họ về vấn đề này thì hàng hoá luôn được trao đổi bằng hàng hoá, một nửa này sẽ cung cấp cho thị trường dành cho nửa còn lại, và do đó sản xuất chỉ thoả mản cho một nguồn nhu cầu duy nhất, một sản phẩm có mức cung quá thừa chứng tỏ rằng mức cung cho một số sản phẩm khác lai thiếu hụt, và đối với trường hợp mức cung chung thì không xãy ra như vậy.[…] Tuy nhiên, học thuyết này trong khi nó được áp dụng nhiều nhưng đối với tôi nó hoàn toàn vô căn cứ, và hoàn toàn trái với những nguyên tắc về luật cung và cầu."

Trong phần đó ông đặt ra một vấn đề liệu có khả năng gia tăng nguồn tiền tiết kiệm và đầu tư (tích luỹ) đối với sự phát triển có bị giới hạn gì hay không. Và câu trả lời của ông là vẫn có một số giới hạn nào đó, những giới hạn này có là do khi nguồn tiền tiết kiệm gia tăng cùng với chi phí giảm vì nhu cầu giảm.

Ông chỉ ra rằng trong quyển Những Quy Luật của mình Ricardo đã thừa nhận nếu lương tăng ,số lợi nhuận giảm dần, và những nhà tư bản thì tìm kiếm cho mình những khoản khác bù vào đó về cơ bản là giảm bớt chi tiêu nhằm có được thặng dư để đầu tư, thì việc giảm nhu cầu tiêu thụ của họ gắn liền với sự tích luỹ và gia tăng mức cung , cả ba vấn đề này có thể là nguyên nhân dẫn đến "những cơn tổng khủng hoảng thừa". Tuy nhiên, Ricardo lại xác nhận rằng "những gì được nói trên không phải là một nguyên tắc chung", tức là cơn khủng hoảng chung là không thể xãy ra. Ngược lại Malthus nói là do "một nước có thể gia tăng lượng tiền nhằm duy trì nguồn lao động nhanh hơn là gia tăng dân số" cho nên trường hợp đặc biệt của Ricardo chẳng phải là đặc biệt gì và có thể tái diễn đều đặn.

Đối với vấn đề này, Malthus cũng đưa thêm vào một số lập luận khác: giả sử năng xuất tăng và hàng hoá giảm giá chẳng phải làm cho nhu cầu hàng hoá tăng lên mà là tăng nhu cầu để có thời gian rảnh rổi ("sự biếng nhác"). Ông nói khuynh hướng thích có thời gian nhàn rổi như thế (và chúng ta biết rằng ông nghĩ là người công nhân ghét phải làm việc) nghĩa là cung sẽ vượt cầu và "một cơn khủng hoảng chung" sẽ xãy ra.

Sau cùng Malthus lập luận: thật sai lầm khi cho rằng -như Ricardo cho là như thế -- việc chi tiêu số tiền tiết kiệm dành cho tích luỹ sẽ tạo ra nhu cầu gia tăng sản luợng khi được đầu tư. Lấy nông dân và nhà sản xuất làm ví dụ, ông nói là số tiền tiết kiệm của họ gia tăng thì nhu cầu của mỗi người về hàng hoá của người còn lại sẽ giảm và sẽ tạo nên cơn khủng hoảng chung. Dĩ nhiên trong lập luận này Malthus lại không phân biệt được "mặt hàng sản xuất" và "mặt hàng tiêu dùng" và do đó không thể đánh giá đúng mức cầu cho "mặt hàng sản xuất" -- một sai lầm thông thường trong lịch sử những thuyết "tiêu thụ dưới mức" của trong cơn khủng hoảng.

Bàn về vấn đề Luật Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô vào Anh Quốc

Một luận điểm không thống nhất giữa Malthus và Ricardo về một vấn đề khác - một vấn đề gây nhiều tranh cải trong xã hội - chính là Luật hạn chế nhập khẩu ngô - mà theo luật này cũng hạn chế nhập khẩu cả lúa mì - có nên bị giảm bớt hay loại bỏ hay không. Hiện tại, những việc có liên quan đến tranh cải này nên được làm sáng tỏ dựa vào những vấn đề xung đột trong Tổ Chức Thuơng Mại Thế Giới (WTO) cũng như những nổ lực của tổ chức này nhằm tiến đến giảm bớt hàng rào mậu dịch.

Ngay sau những cuộc chiến tranh của Napoleon, những người bạn thuộc nghị viện của tầng lớp địa chủ đã giới thiệu luật này vào năm 1815 nhằm giử cho mức giá ngũ cốc ở mức cao, những loại ngũ cốc này chiếm nhiều ưu thế trong thời gian xãy ra chiến tranh do mậu dịch bị chiến tranh làm cho đình trệ. Giá ngũ cốc duy trì ở mức cao liên tục như thế gây hại cho cả người công nhân - những người phải trả tiền mua bánh mì, và cả nhà sản xuất - những người phải trả đủ lương cho công nhân mua bánh mì, và gây tôn hại đến những ai có khả năng xuất khẩu nhưng lại bị giới hạn bởi những nước không thể bán lúa mì sang nước Anh.

Sau khi thông qua sửa đổi năm 1832 với sự tán đồng của tầng lớp tiểu tư sản và thương buôn và buộc nghị viên phải quan tâm chú ý đến họ, họ bắt đầu lập ra tổ chức nhằm kêu gọi bãi bỏ đạo luật đó. Một tổ chức chống đạo luật đó được thành lập vào năm 1836 và vào năm 1839 trở thành Hội Liên Hiệp Chống Luật Hạn Chế Nhập Ngô. Chiến dịch này hoạt động cho đến năm 1846 vì khi đó xãy ra nạn đói lớn ở Ái Nhĩ Lan, và chính phủ đã huỷ bỏ đạo luật này. Nạn đói này xãy ra thường không phải do thiếu lương thực mà do người công nhân không có đủ tiền để mua. Không đủ tiền mua lương thực do hai nguyên nhân: đầu tiên nguyên nhân trực tiếp của cái nghèo là mùa màng thu lợi chính của Ái Nhĩ Lan thất bát do sâu bệnh, thứ hai - mang tính lịch sử, là do đế quốc Anh xâm chiếm Ái Nhĩ Lan, chiếm hết đất của họ chỉ chừa lại một phần đất nhỏ để họ trồng trọt mà thôi. Xin lưu ý rằng, trang "Web Victoria" không nói sâu về nạn đói mà chỉ tập trung vào Anh, đầu tiên họ phớt lờ đến nạn đói này, sau đó lại cung cấp một phần cứu trợ ít ỏi và sau đó gửi quân sang kiểm soát vùng thuộc địa này. Kết quả từ những chính sách của đế quốc Anh là cái chết hàng loạt của những người dân thuộc địa: dân số Ái Nhĩ Lan từ 8,2 triệu người giảm xuống còn 6,5 triệu trong vòng mười năm. Dù sao đi nửa, như trang web này có nói đến, việc huỷ bỏ bộ luật này cũng chẳng giúp gì cho người Ái Nhĩ Lan trong cơn khủng khiếp này bởi vì thậm chí khi giá thực phẩm hạ xuống thấp nhưng họ cũng vẫn không đủ tiền mua.

Chính những sự kích động chống đối lại bộ luật gây nên cuộc tranh cãi giữa Malthus và Ricardo. Cả hai người họ sớm đi vào cuộc tranh luận, đầu tiên là Malthus với bài luận Luật Hạn Chế Nhập Ngô năm 1814 và một bài khác Một Số Lý Do Cho Quan Điểm Về Chính Sách Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô Từ Nước Ngoài năm 1815 và cùng năm đó Ricardo đưa ra bài phản luận: Luận Về Những ảnh Hưởng Mức Giá Thấp Của Ngô Đến Lợi Nhuận Vốn.

Trong khi bài luận đầu vào 1814 của Malthus cố gắng thể hiện và đánh giá cả những lý lẽ trái ngược nhau, thì bài thứ hai rõ ràng nghiêng về ủng hộ cho bộ luật này. Mặc dù ông nhận ra những ưu thế thông thường mà mậu dịch tự do mang đến bao gồm cả cách mà khi nhập khẩu lúa mì tăng thì làm cho giá ngũ cốc cũng như bánh mì giảm, nhưng Malthus cũng cho rằng những trường hợp đặc biệt như vậy đã làm cho thuế xuất nhập khẩu tăng cao. Những trường hợp đặc biệt mà ông đưa ra đều là những rủi ro đối với những quốc gia khác đặc biệt là Pháp với sản lượng ngũ cốc khổng lồ, những quốc gia này cố gắng xuất khẩu ngũ cốc ra nước ngoài nhưng xuất khẩu sang Anh thì có thể bị cắt giảm. Hay nói cách khác, ông cho rằng, người Anh phải lãnh chịu hậu quả khi theo đường lối tự do mậu dịch trong khi những nước khác thì không. Khi đưa ra trường hợp thế này, ông cũng nêu trường hợp cắt giảm nhập khẩu ngũ cốc vào Anh trước đó, tức là trong suốt thời gian nổ ra chiến tranh thời Napoleon, và cho thấy những hậu quả từ việc tăng giảm giá cũng như trữ lượng ngũ cốc một cách đột ngột và mạnh mẽ.

Để phản luận lại Malthus, Ricardo bàn về vấn đề tô thuế -- nhưng nhìn chung cũng đồng ý với Malthus về vấn đề này - và tiếp tục tranh luận rằng mức giá thực phẩm và tô thuế phải nộp cho địa chủ quá cao khi đó chỉ làm lợi cho họ và gây tổn hại cho những người khác: "lợi ích của tầng lớp địa chủ luôn đối lập với lợi ích của những tầng lớp khác trong xã hội. Ông ta chẳng bao giờ có được một cái nhìn bao quát, bởi vì khi đó thực phẩm khan hiếm và đắt đỏ trong khi mọi người khác lại có thể mua được thực phẩm với giá rẻ."

Những gì Ricardo lưu tâm trong vấn đề mức giá cao của thực phẩm là chính nó ban đầu được hỗ trợ bởi sự thiếu vắng số ngũ cốc nhập khẩu suốt những năm chiến tranh, và sau đó lại được Luật Hạn Chế Nhập Khẩu Ngô hậu thuẫn và gây tác động tiêu cực đến lợi nhuận vốn: "chúng ta có thể dễ dành chứng minh được rằng trong mỗi xã hội mà khi tài sản cũng như dân số của nó tăng trưởng độc lập với những tác động do mức lương nhiều hay ít gây ra, thì lợi nhuận chung phải giảm trừ khi nông nghiệp được cải tiến, và có thể nhập khẩu ngô với giá rẻ hơn." Do vậy, tốt hơn hết là giữ nguyên mọi thứ nhưng giá ngũ cốc phải rẽ hơn thông qua tự do nhập khẩu bởi vì nó sẽ giúp làm giảm mức lương và tăng lọi nhuận.

Nhưng Malthus cho rằng không phải mọi thứ đều được giữ nguyên không đổi, mà ngược lại còn gây ra mối nguy hại cho việc nhập khẩu ngũ cốc vào Anh và do đó nền kinh tế Anh có nguy cơ bị tác động tiêu cực mạnh mẽ. Về mặt này, Ricardo đáp lại rằng: thứ nhất, một khi lượng ngũ cốc xuất khẩu sang Anh đạt được trữ lượng lớn trở thành một việc bình thường rồi thì không có nước nào có thể cắt giảm được trữ lượng xuất đó nữa trừ khi mùa màng thất bái hay có bạo loạn xãy ra (ông có trích dẫn ví dụ về hậu quả của việc Bonaparte cắt giảm lượng xuất ngũ cốc của Nga);thứ hai, cũng giống như thời đó nước Anh vẫn có thể có được số ngũ cốc từ những quốc gia khác (như Mỹ đã nhận ra điều này khi nó phong toả không cho bán ngũ cốc sang Afghanistan trong suốt thời kỳ mà Afghanishtan còn chịu sự ảnh hưởng của Xô-Viết) đặc biệt là khi Anh thi hành chính sách tự do mở rộng thị trường thì những nhà sản xuất từ các nuớc kéo nhau phát triển sản xuất với một mục đích duy nhất là xuất khẩu qua Anh; thứ ba, sự giảm sút trong sản xuất nông nghiệp của Anh do giá ngũ cốc rẽ có thể được làm lắng dịu lại bằng chính sách mậu dịch ngày càng tự do hơn và dù cho có rút vốn ra khỏi ngành nông nghiệp và đầu tư vào sản xuất các mặt hàng có giá trị và dù cho chi tiêu của địa chủ có giảm đi do tô thuế giảm thì cũng có thể lấy mức chi tiêu gia tăng từ lợi nhuận và lương để bù vào.

Như đã được đề cập ở trên, mặc dù Ricardo và những người chống đối lại luật hạn chế nhập ngô nhìn chung được sự ủng hộ của những học giả trong những cuộc tranh luận, nhưng quyền hạn của tầng lớp địa chủ chính là để duy trì bộ luật hạn chế nhập ngô, thay thế cho những bộ luật khác trong vòng 30 năm.


Copyright (c) 2006 by kinhtehoc.com

No comments:

Post a Comment