Triết lý sống

Phàm làm việc gì trước phải suy xét đến hậu quả của nó
Hành động của người quân tử là giữ tĩnh lặng để tu thân, cần kiệm để dung dưỡng đức độ. Không đạm bạc thì không thể có trí tuệ sáng suốt, không yên tĩnh thì không có chí vươn xa. Học thì phải cần yên tĩnh, muốn có tài năng phải học; không học thì không biết rộng, không có chí thì việc học không thành.

Mong muốn lan man thì không thể nảy sinh cái tinh túy, vội tìm cái hiểm hóc thì không nắm được cái thực tình. Thời gian tuổi tác qua nhanh, ý chí cùng ngày tháng trôi đi trở thành khô héo, phần lớn không tiếp cận được với thời đại, rồi buồn tủi nơi lều nát, sao còn khôi phục lại kịp cái chí hướng được nữa !

Wednesday, April 13, 2011

Tấm Gương Do Thái

Sau 2.000 năm nước mất nhà tan, người người ly tán ăn nhờ ở đậu các xứ trên thế giới và thường trực bị sống trong thảm nhục diệt chủng, động lực nào đã thúc đẩy người Do Thái - với trăm ngàn dị biệt giữa họ - không những giành lại được đất tổ quê cha mà còn biến vùng đất khô cằn sỏi đá cũng như sa mạc hoang sơ từ ngàn xưa nơi đó thành một cõi bờ trù phú tân tiến, hồi sinh và thống nhất một ngôn ngữ già như trái đất là cổ ngữ Hébreu thành quốc ngữ?

1/ Dân tộc Do Thái

Thủy tổ người Do Thái và ý thức Do Thái Giáo là Abraham, dân tộc Hébreu , thuộc giòng Sémite. Abraham gốc người xứ Chaldée (Irak ngày nay), theo thân phụ di cư qua đất Canaan. Ông tự nhận được Thượng Đế khải thị cho chọn đất nầy làm nơi định cư lập nghiệp. Tuy nhiên, dân tộc Do Thái chỉ thực sự được gầy dựng kể từ đời thứ tư nhờ một trong 12 người chắt trai của Abraham là Joseph. Bấy giời Joseph làm thượng thư trong triều đình Ai Cập nên toàn thể độ 70 người trong tộc Abraham đều theo Joseph qua Ai Cập sinh sống.

Vào năm 1585 trước CN, một vị Pharaon (vua Ai Cập) khác lên ngôi, không thích người Do Thái, nghi kỵ và bạc đãi bắt cả nhóm của Joseph làm nô dịch. Ý thức thành lập một quốc gia Do Thái phát sinh từ đó.

Gông cùm nô dịch kể trên kéo dài 317 năm mới được Moïse giải phóng. Moïse là một thân vương của Ai Cập, nhưng đứng trước nhục trạng của đồng bào ông, ông cương quyết từ bỏ địa vị cao sang cá nhân, bênh vực và bảo vệ họ.

Vào năm 1266 trước CN, Moïse đưa đồng bào đau khổ của ông di cư về Đất Hứa. Tới núi Sinaï, họ sống vất vưởng cực khổ 40 năm. Truyền rằng chính nơi đây, được khải thị bởi Thượng Đế, Moïse đã cụ thể hoá ý thức tôn giáo nhất thần của Abraham thành Do Thái Giáo, có cơ sở hẳn hòi: Thờ Jahvé, một thượng đế toàn năng, toàn trí, chí nhân, chí công và là người tạo ra trời đất cùng muôn loài.

Thánh Kinh Do Thái (La Torah) di lưu rằng vì thủy tổ loài người, ông Adam và bà Eva, phạm tội ăn trái cấm nên hậu duệ của ông bà phải chịu khổ, song một ngày kia một Đấng Cứu Thế trong tộc Do Thái sẽ ra đời và Ngài sẽ là người hoà giải Jahvé với nhân loại.

Người trong đạo Do Thái tin có linh hồn và linh hồn bất diệt khi thể xác rữa tan. Tín đồ Do Thái giáo phải tin theo Thập Tự Giới như: thờ một Chúa duy nhất, kính trọng cha mẹ, không được cướp của giết người, không được nói dối, phải giữ linh hồn và thể xác trong sạch ... Ngày thứ bảy trong mỗi tuần là ngày Sabbat, tức là ngày thiêng liêng, mọi công việc đều phải đình lại.

Dân tộc Do Thái bắt đầu văn minh và thống nhất từ đời Moïse nhưng nhờ Josué, đời kế tiếp, chiếm được một phần xứ Canaan (Đất Hứa), con cháu Israël mới về đó định cư chính thức. Sau, David chiếm trọn đất Canaan, dựng đô ở Jérusalem, lập một ngôi đền đẹp đẽ cũng lấy tên là Jérusalem (có nghĩa là Đền Bình Trị). Và đến đời con của David là Salomon, quốc gia Do Thái mới toàn thịnh.

Năm 930 trước CN, Salomon băng hà, Israël bị chia làm hai tiểu quốc: Israël ở phía bắc và Judée ở phía nam. Nam bắc tương tàn, rốt cuộc Israël bị Assyrie chiếm mất, Judée lọt vào tay Babylone.

Tới khi Ba Tư (Iran) sang chiếm Babylone, người xứ Judée mới được về lại xứ, xây cất lại đền Jérusalem, tạm sống yên ổn trong hai thế kỹ.

Rồi tới năm 63 trước CN, La Mã chiếm xứ Judée, tàn phá và đổi tên Jérusalem thành Aelia Capitolina, và Israël thành Palestine (tên cũ). Dân tộc Do Thái mất quốc gia và nếm mùi lưu vong và nhục trạng diệt chủng trường kỳ khủng khiếp từ thời đó cho tới năm 1948, tây lịch.

2/ Bước đường lưu vong

Mới đầu họ tản mác qua Tiểu Á rồi qua Âu Châu, Bắc Phi, Ethiopie, chỉ còn một nhóm nhỏ ở lại trong xứ sống chung với người Ả Rập. Đi tới đâu, thổ dân cũng nhận ra họ, một là vì tôn giáo, hai là vì nét mặt (nhất là sống mũi mỏ vẹt đặc thù của họ), ba là sự đoàn kết, sự thông minh, sự tiến đạt thịnh vượng hơi quá lộ liễu của họ, dù rằng đi tới đâu họ cũng đều nhập tịch xứ đó và cũng hy sinh tính mạng những khi hữu sự y như người bản xứ.

Xin lược kể ra đây một vài trường hợp khinh ghét oái oăm mà người Do Thái phải hứng chịu tại các nước đạo Hồi:

• Tại Ba Tư (Iran) vào thế kỹ XIX tây lịch, người Do Thái chẳng khác gì hạng tiện dân bên Ấn Độ, vì đối với người bản xứ, hễ người Do Thái đụng tới một vật gì thì vật đó hoá ra nhớp nhúa bẩn thỉu. Do đó người Do Thái bị cấm triệt không được hành nghề như mở quán tạp hoá, nhà hàng ... Lúc trời mưa, họ không được ra khỏi khu vực dành riêng cho họ (có tên là Mellah) tương tự như các ghetto ở Âu Châu. Đặc biệt người Do Thái không có quyền làm chứng và tuyên thệ ở toà án. Sinh mạng của một người Do Thái không quá 140 Kraus (tiền Ba Tư).

• Tại Maroc, người Do Thái không được luật pháp công nhận quyền công dân dù họ đã vào quốc tịch. Lẽ sống chết của họ tùy thuộc vào nhà vua. Vua Maroc muốn bắt họ làm nô lệ thì họ phải tuân theo vì không biết dựa vào đâu mà kêu ca ngoài lời nguyện cầu Jahvé che chở.

• Tại Yémen trước 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước mặt người Hồi giáo, không được bán cùng món hàng với người Hồi. Ngoài ra, ngày thờ Mohamed, giáo chủ Hồi giáo, người ta cấm họ mặc các thứ vải có màu nhạt, mang khí giới. Trẻ con Do Thái mồ côi phải giao cho nhà cầm quyền để nhà cầm quyền cho chúng theo Hồi giáo.

Thân phận người Do Thái ở Âu Châu xét ra còn bi đát hơn nhiều so với thân phận người Do Thái ở Trung Đông. Suốt gần mười thế kỹ, không nơi nầy thì nơi khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị nhục cảnh ghetto, pogrom, hỏa hình lò thiêu, dìm nước. Người Do Thái bị buộc gắn hình bánh xe nhỏ hoặc hình ngôi sao David sáu cánh trên áo như tội phạm mang áo dấu, bị trút lên đầu lên cổ tất cả mọi tội lỗi mà họ không hề gây nên. Nhưng lúc họ được yên thân nhất cũng không khác thân phận nô lệ là bao vì người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn theo nghề nông, họ chỉ có thể làm nông nô hay tá điền là cùng. Muốn khá giả, họ chỉ còn nghề đổi tiền và cho vay .

Sự học hành của người Do Thái ở các nơi nầy cũng bị hạn chế. Chẳng hạn ở Nga, chính phủ không ra mặt cấm hẳn sự học của họ nhưng lại áp chế một chính sách xảo quyệt là cho các trường trung học chỉ được thu nhận một số học sinh Do Thái khoảng 10% tổng số học sinh theo Thiên Chúa giáo, trong khi ở châu thành nào có dân Do Thái thì nhân số Do Thái cũng chiếm ít nhất 30% tổng số dân cư ngụ vì người Do Thái bị bắt buộc phải sống chung gần như trong các ghetto của Đức, của Ba Lan.

Tình cảnh của họ bất công đến nỗi một người theo Thiên Chúa giáo đã phải thốt ra câu nầy: "Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là người Thiên Chúa giáo ngoan đạo thì hết thẩy chúng ta đều là những người Thiên Chúa giáo ngoan đạo".

Cuộc tàn sát Do Thái vì kỳ thị Thiên Chúa giáo thực sự bắt đầu từ thế kỹ XI trong cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân kéo dài đến đầu thế chiến thứ hai thì chuyển hướng qua kỳ thị chủng tộc bởi Hitler và Đức Quốc Xã.

3/ Kỳ thị tôn giáo

Năm 1096, người ta rủ nhau đi giải phóng mộ Chúa Ki Tô. Và còn gì hữu lý bằng, trước khi làm công việc thiêng liêng cao cả đó, trả thù những kẻ mà 11 thế kỹ trước đã phản bội Chúa nên Chúa mới bị chính quyền La Mã kết tội phiến loạn, bị đóng đinh trên Thánh Giá tại núi Golgotha cùng với hai tên đạo tặc.

• Ở Worms (Đức), trong hai ngày, người Âu Châu đã làm thịt 800 người Do Thái bất luận già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Hễ là Do Thái mà không chịu theo Thiên Chúa giáo là bị chém bằng gươm bằng giáo.

• Ở Mayence (Đức) cũng vậy, 700 người Do Thái ngã gục chỉ vì họ là hậu duệ của kẻ đã giết Chúa (Juda) và đã được Chúa" xin Cha - Thượng Đế - tha thứ cho họ (người Do Thái) vì họ không biết họ làm gì". Chúa tha, nhưng đời đời kiếp kiếp tín đồ của Chúa, vốn không cùng chủng tộc với Chúa, không tha, quyết diệt cho tiệt cái nòi mà chính Chúa đã mượn thân xác xuống trần.

Mà thật ra, Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo vốn là"đồng bào ruột thịt"vì Đức Mẹ Maria và Chúa Jésus đều là người Do Thái và tất cả đều theo những điều luật của Moïse, cũng dân Do Thái nốt.

Còn nhiều, rất nhiều cuộc tàn sát Do Thái khác trước đệ nhị thế chiến nhưng vì không tiện liệt kê cả ra đây. Chúng ta hãy biết rằng năm 1905, Nga thua Nhật ở eo bể Đối Mã, cách mạng nổi lên ở Nga và dân Nga lại trút hết tội lỗi lên đầu người Do Thái, do đó có nhiều cuộc thảm sát Do Thái trong tháng 10 (1905) và vào năm 1919-1921 đã có trên 10 vụ pogrom.

4/ Kỳ thị chủng tộc


Trước kia người ta giết Do Thái một cách thô bạo, dã man. Đến thế chiến thứ hai, Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát họ rất bình tỉnh, có tổ chức, có kế hoạch, có chủ thuyết và có khoa học. Bởi vậy dân Do Thái chết như rạ, dầu Néron, Tần Thủy Hoàng có tái sinh cũng không thể không cúi đầu chịu thua trên phương diện lượng và phẩm khủng khiếp.

holocaust03.jpg

Lửa kỳ thị tôn giáo và hận giết Chúa sau gần 20 thế kỹ dù sao cũng phải lụi phần sôi sục. Hơn nữa, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo, cho nên muốn tận diệt họ, Hitler bèn tạo thêm lòng kỳ thị chủng tộc. Thuyết kỳ thị chủng tộc của Hitler đã được rút ra từ cuốn sách "Chủng Loại Các Thứ Cây" (Espèces en Botanique), xuất bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thụy Điển Carl Linné (1707-1778). Từ hệ tống phân loại cỏ cây làm 24 giống, Linné phân loại tới loài người: Giống Âu da trắng siêng năng, giống Á da vàng dai sức, giống Phi da đen bạc nhược và giống Mỹ da đỏ nóng nảy.

Chộp lấy hệ thống đó, Đức Quốc Xã tuyên truyền rằng giống Do Thái – vàng chẳng ra vàng, đen chẳng ra đen, trắng không thật trắng – có máu quỉ quyệt phản bội (phản Chúa), chống chính phủ (thuyết cộng sản của Marx, gốc Do Thái). Vậy, vì lý do an ninh của nước Đức và để bảo tồn huyết thống của giống Đức (giống Aryen) - một giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới - khỏi bị lây lai bậy bạ mà phải sa đoạ lần lần mất, chúng ta (dân Đức) phải tận diệt chúng (tức Do Thái) và tịch thu tài sản của chúng.

Từ năm 1939 đến đầu năm 1945, tính ra có trên năm triệu người Do Thái bị Hitler và đồng bọn thảm sát hoặc bằng súng đạn, hơi ngạt, hoặc bằng lò thiêu, chôn sống. Chỉ riêng tại trại Auschwitz cũng đã có gần ba triệu thây ma Do Thái.

Hai chữ Do Thái thật ra chỉ là danh xưng để gọi một giống người mà huyết thống, sau 2.000 năm vong quốc, đã bị lai loãng cả trăm, cả ngàn đời rồi. Cho nên có đến hàng trăm thứ Do Thái: Do Thái Pháp, Do Thái Bỉ, Do Thái Ý, Do Thái Anh, Do Thái Mỹ, Do Thái Nga, Do Thái Hung, Do Thái Thổ, Do Thái Đức, Do Thái Ba Lan, Do Thái Bồ Đào Nha, Do Thái Tây Ban Nha, Do Thái Ả Rập (Iran, Irak ..., Algérie, Maroc, Tunisie, Syrie, Egypte – Ai Cập ...), Do Thái Áo, Do Thái Phi châu da đen ... và cả Do Thái Tàu.

Tóm lại trên phương diện địa lý-văn hoá, giữa người Do Thái với nhau có sự phân chia đại cương thành 2 nhóm: Ashkénaze và Séfarade. Ashkénaze = Do Thái gốc Nhật nhĩ man (germanique: Đức, Anh, Hoà Lan... và mấy nước Bắc Âu) và Tư lạp phu (slave: Nga, Biélorusses, Ba Lan, Ukraines, Serbes, Croates, Slovaques, Tchèques...); Séfarade = Do Thái gốc Địa Trung Hải (méditerranéens: chủ yếu là Cận Đông, Bắc Phi và Tây Á).

5/ Phục Quốc


Bao lần quật khởi đẩm máu, người Do Thái vẫn không tránh được cảnh nước mất nhà tan, người người phân tán trên khắp địa cầu. Ở đâu họ cũng bị hất hủi, khủng bố, tàn sát cho nên lòng hoài hương của họ trong suốt 2.000 năm lúc nào cũng đau đáu trong lòng. Nỗi khổ của họ đã làm thi sĩ Anh Cát Lợi Byron buột miệng than"Dân Do Thái khổ hơn những con thú không có hang".

Dù ở Moscou, Paris, New York, Rome, Berlin, Londre ... người Do Thái luôn luôn hướng về thánh địa Jérusalem và xứ Israël, mảnh đất thiên đường mà, nghe nói, Thượng Đế đã đặc ban cho họ, một dân tộc, cũng nghe nói, được Chúa trời chọn. Bất cứ gặp nhau ở nơi nào, họ đều chúc nhau: Sang năm về Jérusalem.

Nói đến công cuộc phục quốc của người Do Thái mà không nói tới Théodore Herzl thì quả là một thiếu sót lớn. Vì nếu không có cuốn sách nhỏ mang tựa đề "Quốc Gia Do Thái" (L'Etat Juif) của Herzl, chẳng biết ngày nay thân phận hậu duệ ông Jacob đã đi đến vực thẳm khổ nhục nào rồi.


Théodore Herzl sinh năm 1860 tại Budapest (Hung Gia Lợi), viết báo, soạn kịch và hành nghề ký giả. Nhân vụ án Alfred Dreyfus, một sĩ quan gốc Do Thái-Alsace trong quân đội Pháp, làm sôi nổi dư luận Âu Châu năm 1894, Herzl được toà báo Neue Freie Press (tân Tự Do) phái tới dự thính vụ xét xử và lột lon Dreyfus (ngày 15/01/1895) trước công chúng Pháp để viết bài tường thuật. Sĩ quan Dreyfus bị Bộ Quốc Phòng Pháp ngờ cho là gián điệp của Đức, bị toà xử tội đày. Dreyfus một mực kêu oan. Nét mặt ông khi ra toà tại Rennes thật thảm thương, chân thành, gây lòng trắc ẩn cho một số người trong đó có văn hào Emile Zola (1840-1902) và ký giả Théodore Herzl.

Nghiệm thấy chứng cớ xử tội Dreyfus không đứng vững và tin rằng Dreyfus bị hàm oan, Emile Zola bèn can đảm viết loạt bài bất hủ nhan đề "Tôi Buộc Tội" (J'accuse) trên tờ l'Aurore (01/1898) để buộc chính phủ Pháp xét lại trường hợp của Dreyfus. Bảy năm sau, có đủ tài liệu chứng minh sự vô tội của Dreyfus, toà phá án và tha bổng Dreyfus. Song sau 12 năm nằm tù một cách oan uổng, Dreyfus đã hoá ra con người bỏ đi.

Chính nỗi bất công mà Dreyfus phải hứng chịu đã thay đổi hẳn một người đồng chủng của ông là Théodore Herzl. Nỗi oan uổng đó đã làm Herzl gậm nhấm rằng "chỉ vì lỡ sinh ra là người Do Thái như mình mà Dreyfus phải bị tội oan". Cái án Dreyfus ám ảnh ông khôn nguôi và non một năm sau, ông viết một cuốn sách nhỏ tựa đề "Quốc Gia Do Thái", xuất bản tại Vienne (Áo) năm 1896. Sách được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trong sách có đoạn viết "người Do Thái nào muốn có một quốc gia của mình thì sẽ có một quốc gia và xứng đáng được có quốc gia". Ấy vì "chỉ có mình mới tự cứu mình được thôi, và vấn đề Do Thái phải do người Do Thái giải quyết lấy".

Herzl hoạt động hăng say không tiếc sức. Chu du khắp nơi, gặp gỡ hết thảy các nhân vật có thẩm quyền lúc bấy giờ. Năm 1903, người Anh muốn tặng ông xứ Ouganda ở trung bộ Phi Châu, đảo Chypre ở Địa Trung Hải để thành lập quê hương Do Thái, nhưng các người Do Thái ở Nga - đặc biệt Chaïm Weizmann, sau nầy thành vị tổng thống đầu tiên của Israël - nhất định không chịu, kiên quyết đòi về đất Palestine cho bằng được.

Quá lao tâm lao lực ngày đêm tranh đấu thuyết phục các chính quyền, liên lạc với đồng bào trên thế giới, Herzl kiệt sức và qua đời tại Vienne (Áo) năm 1904 hồi mới 44 tuổi.

Năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ. Đồng minh trông cậy rất nhiều vào Anh quốc vì bấy giờ Anh làm bá chủ trên biển. Nhà cầm quyền nước Anh lúc đó vô cùng bối rối vì các nguyên liệu chế tạo thuốc nổ của họ thiếu một chất cốt yếu, đó là chất acétone. Trong những ngày khủng hoảng đó, nhà bác học Anh gốc Do Thái Chaïm Weizmann (1874-1952) đã sáng suốt nắm lấy cơ hội, chế biến được chất acétone nhân tạo giúp đồng minh đánh bại Đức năm 1918. Đế quốc Ottoman sụp đổ. Thực dân Anh cưỡng chiếm Palestine.

6/ Xin lưu ý:


Palestine không phải là một quốc gia mà là một vùng đất mênh mông thuộc đế quốc Ottoman, 1453-1917. Đệ nhất thế chiến chấm dứt năm 1918, thực dân Pháp "được ủy nhiệm "vùng Bắc Phi" (Maroc, Algérie, Tunisie, Libye) và bắc Cận Đông (Syrie và Liban). Palestine nằm dưới sự "ủy nhiệm" của thực dân Anh, nơi đây gồm các tộc Ả Rập Hồi, Thiên Chúa Giáo và Do Thái được gọi chung là Palestiniens (cư dân vùng Palestine).

Để thưởng công ông, thủ tướng Anh Lloyd George tặng ông một chi phiếu ký tên nhưng để trống số tiền. Ông từ chối và nói "xin thủ tướng hứa với tôi là sẽ dùng hết uy quyền của thủ tướng để cho đất Palestine được trả lại cho người Do Thái chúng tôi".

Quê hương Do Thái được thành lập vào năm 1922 nhưng bị đặt dưới quyền bảo hộ của Anh, tức là có tiếng mà không có miếng (Tuyên ngôn Balfour ngày 02/11/1917).

Năm 1938, trước khi chấm dứt thế chiến thứ 2 (1939), thực dân Anh đề nghị chia khoảng 30% lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Ả Rập và một Do Thái, nhưng sự việc không thành.

Phải đợi đến cuối thập niên 1940 quốc gia Do Thái mới thành một thực tại độc lập. Trong thế chiến thứ hai, một lần nữa người Do Thái đã anh dũng chiến đấu phía đồng minh, đặc biệt bên cạnh Anh mặc dù người Anh đã một lần xảo quyệt phụ rẫy công lao của họ (cho đất mà không cho quyền tự trị).

Khi chiến sự kết liễu, hy vọng độc lập của người Do Thái lại bay theo khói súng. Công chung sức diệt Đức Quốc Xã của họ không được Anh đếm xỉa tới. Sự kiện nầy trách Anh là chuyện thừa vì sự thành lập một quốc gia Do Thái độc lập ảnh hưởng đến lẽ sống chết của Anh: các mỏ dầu hỏa của Anh nằm hết bên các xứ Ả Rập – Ai Cập, Syrie, Ả Rập Séoudite, Cisjordanie - những quốc gia tử thù truyền kiếp với Do Thái.

Nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, ngày 29/11/1947, tán thành giải pháp chia đôi toàn bộ lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Do Thái (56,47%) và một Palestine (43,53%). Thánh địa Jérusalem có một quy chế đặc biệt dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Khối Ả rập không chịu, đặc biệt người Palestine, viện cớ không được tham vấn trong việc phân chia.

Dầu vậy, ngày 14/05/1948, dưới sự lãnh đạo của David Ben Gourion (1886-1973), quốc gia Do Thái được thành lập. David Ben Gourion đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập:

"Đất Israël là nơi sinh ra dân tộc Do Thái". Chính nơi đó đã đặt nền móng cho bản sắc tâm linh, tín ngưỡng và dân tộc của người Do Thái. Chính nơi đó dân tộc Do Thái đã thực hiện nền độc lập của mình và đã tạo nên một nền văn hoá có ý nghĩa quốc gia và phổ biến. Chính nơi đó họ đã soạn ra bản Thánh Kinh và đã cống hiến cho thế giới.

Bị bức bách phải lưu xứ, tản mác trong mọi quốc gia khác, dân tộc Do Thái vẫn thủy chung với vùng đất Israël, chưa bao giờ họ ngưng nguyện cầu và ngưng hy vọng trở về để tái lập nền tự do quốc gia của mình.

Thúc đẩy bởi sự liên hệ lịch sử đó, người Do Thái đã đấu tranh qua bao thế kỹ để được trở về trên mảnh đất của tổ tiên và tìm lại xứ sở của mình. Qua mấy thập niên gần đây, người Do Thái đã trở về hàng loạt, khai khẩn các vùng đất hoang, tái sinh ngôn ngữ, xây dựng các thành phố, các thôn làng và sắp đặt một cộng đồng năng động và tràn đầy phát triển, có đời sống riêng về kinh tế và văn hoá. Họ cầu tìm hoà bình đồng thời sẵn sàng để tự vệ. Họ đã mang lại nhiều lợi ích trong tiến bộ cho mọi cư dân trong xứ và đã được chuẩn bị cho nền độc lập tối cao.

Năm 1897, hội nghị Sionisme [chủ nghĩa người Do Thái tự trị] lần thứ nhất, cảm hứng từ dự phóng một quốc gia Do Thái của Théodore Herzl, đã công bố quyền của dân tộc Do Thái trong mùa xuân mới dân tộc trên chính quê hương của họ.

Quyền đó đã được bản Tuyên Ngôn Balfour công nhận ngày 02 tháng 11 năm 1917 và được Hội Quốc Liên [Liên Hiệp Quốc] tái xác định, do đó đã thành sự công nhận quốc tế chính thức về mối liên hệ lịch sử của dân tộc Do Thái với vùng đất Palestine và quyền tái lập quê hương của họ.

Thảm hoạ Shoah (1) đã tiêu diệt hàng triệu người Do Thái tại Âu Châu, thêm một lần nữa chứng minh nhu cầu phải giải quyết vấn đề thiếu tổ quốc và độc lập của dân tộc Do Thái bằng sự tái lập quốc gia Do Thái hầu mở cửa cho mọi người Do Thái và trao cho họ một quy chế bình đẳng trong lòng cộng đồng các quốc gia.

Những người sống sót trong cuộc thảm sát tại Âu Châu cũng như những người Do Thái từ các quốc gia khác không hề buông bỏ sự cố gắng của họ để tìm về Israël, bất chấp mọi khó khăn, mọi trở ngại, mọi tai ương; và họ không ngưng đòi hỏi quyền có một đời sống có phẩm cách, có tự do và có công ăn việc làm liêm chính trên mảnh đất của tổ tiên họ.

Trong thế chiến thứ 2, sát cánh với các quốc gia yêu chuộng tự do, cộng đồng Do Thái Palestine đã đóng góp trọn vẹn phần mình trong chiến đấu chống lại ách Đức Quốc Xã. Với những hy sinh của quân sĩ và những cố gắng của họ trong chiến tranh, người Do Thái xứng đáng được có mặt giữa những quốc gia sáng lập Liên Hiệp Quốc.

Ngày 29 tháng 11 năm 1947, Hội Đồng LHQ đã tán thành một nghị quyết về việc tái lập một quốc gia Do Thái tại Palestine.

Hội Đồng đã yêu cầu cư dân trong xứ dùng mọi phương sách cần thiết để thực thi nghị quyết đó. Sự công nhận của LHQ về quyền của dân tộc Do Thái được phép tạo dựng một quốc gia độc lập cho họ [là sự công nhận] không thể vãn hồi.

Đó là quyền tự nhiên của dân tộc Do Thái, cũng như mọi quốc gia khác đã làm, hướng tới một hiện hữu độc lập trong đất nước tối thượng của họ.

Vì thế, chúng tôi, các thành viên trong Hội Đồng Quốc Gia, đại diện cho cộng đồng Do Thái Palestine và phong trào Sionisme Thế Giới, họp mặt trong đại hội long trọng hôm nay – ngày chấm dứt sự ủy nhiệm của người Anh tại Palestine - bằng vào quyền tự nhiên và lịch sử của dân tộc Do Thái và chiếu theo nghị quyết của Hội Đồng LHQ, chúng tôi công bố việc thành lập một quốc gia Do Thái tại Palestine, [quốc gia đó] sẽ có tên là Israël.

Chúng tôi tuyên bố rằng kể từ khi chấm dứt sự ủy nhiệm, vào nửa đêm ngày 14 tháng 05 năm 1948, và cho đến khi các cơ quan nhà nước thường trực được bầu chọn đúng theo bản hiến pháp sẽ được hoàn chỉnh bởi một hội đồng từ nay cho đến ngày 01 tháng 10 năm 1948, Hội Đồng Quốc Gia sẽ hành động với tư cách Hội Đồng Tham Chính Lâm Thời và nền hành chính trong nước sẽ thi hành nhiệm vụ của một chính phủ lâm thời của quốc gia Do Thái tên gọi là Israël.

Quốc gia Israël (QGI) sẽ mở cửa đón nhận mọi con dân Do Thái tản mác trên thế giới; QGI sẽ lưu tâm đến sự phát triển đất nước vì phúc lợi của mọi cư dân trong xứ; QGI sẽ được đặt nền tảng trên các nguyên tắc của Tự Do, Công Bằng và Hoà Bình đúng theo những gì mà các vị tiên tri Israël đã cưu mang; QGI sẽ bảo đảm sự bình đẳng toàn diện về xã hội và chính trị cho mọi công dân, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc hay giới tính; QGI sẽ bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giáo dục và văn hoá; QGI sẽ bảo đảm việc bảo vệ các thánh địa của mọi tôn giáo và sẽ tôn trọng những nguyên tắc trong Hiến Chương LHQ.

QGI sẵn sàng hợp tác với các tổ chức và đại diện của LHQ để thực thi nghị quyết đã được biểu quyết bởi Hội Đồng ngày 29 tháng 11 năm 1947 và dùng mọi phương sách cần thiết hầu đặt để sự Liên Kết Kinh Tế trên toàn lãnh thổ Palestine.

Chúng tôi yêu cầu LHQ giúp đỡ dân tộc Do Thái tạo dựng đất nước họ và thừa nhận Israël trong gia đình các quốc gia.

Là nạn nhân của sự công kích đặc trưng, tuy vậy chúng tôi yêu cầu các cư dân Ả Rập [sinh sống] trên đất nước Israël hãy dự phòng những đường hướng hoà bình và đóng góp vai trò của mình vào việc phát triển đất nước trên căn bản công dân đầy đủ và bình đẳng và tư cách thích đáng trong các cơ quan và học viện – lâm thời và thường trực - của xứ sở.

Chúng tôi dang tay, với biểu hiện hoà bình và láng giềng tốt, hướng tới mọi quốc gia và dân tộc bao quanh chúng tôi và chúng tôi kính mời họ đến hợp tác với quốc gia Do Thái độc lập vì điều tốt đẹp chung cho tất cả. QGI sẵn sàng góp phần mình vào sự tiến bộ của Cận Đông và trong toàn thể.

Chúng tôi yêu cầu con dân Do Thái trên thế giới hãy sát cánh với chúng tôi trong trọng trách hồi cư và phát triển cũng như hãy giúp chúng tôi trong cuộc tranh đấu thực hiện lại giấc mơ của bao thế hệ đã trôi qua: Chuộc lại Israël.

Vững tin vào đấng vĩnh hằng toàn năng, chúng tôi ký bản Tuyên Ngôn này trong phiên họp của Hội Đồng Quốc Gia Lâm Thời, trên bờ cõi của tổ quốc, trong châu thành Tel Aviv, rạng ngày lễ Shabbat, 5 Iyar 5708 tức ngày 14 tháng 05 năm 1948."

7/ Kiến Quốc


Giành được nền độc lập không có nghĩa quốc gia Do Thái sẽ được sống trong hoà bình để kiến thiết khi chung quanh họ các nước thù địch trong Liên Đoàn Ả Rập (được thành lập từ 1945) vẫn nhất quyết tận diệt họ. Hơn nữa, như chúng ta đã biết, có quá nhiều khác biệt trên mọi phương diện giữa người Do Thái với nhau và vùng đất mới được độc lập của họ vốn đã "chết" quá lâu, ảnh hưởng rất nhiều đến lẽ sinh tồn của họ.

Công việc đầu tiên mà Bộ Quốc Gia Giáo Dục Istaël gấp rút xúc tiến sau ngày 14/05/1948 là thống nhất tiếng Hébreu thành quốc ngữ. Thật vậy, sau 2.000 năm phiêu bạt khắp hoàn cầu, con cháu Abraham không những đã mất đi ít nhất 99% huyết thống chính tông trong người mà tiếng mẹ đẻ chẳng còn mấy người nói được. Thời mới phục hồi nền độc lập, dân số Israël được hơn một triệu gồm trên 50 giống người và mỗi giống mỗi ngôn ngữ, mỗi nếp sống, mỗi trình độ văn minh, văn hoá.

Để thống nhất ngôn ngữ, BQGGD Israël cưỡng bách mọi công dân Israël phải học tiếng Hébreu, soạn những sách phổ thông dạy từ 500 đến 1.000 tiếng căn bản để sau vài tháng dân chúng có thể đàm thoại với nhau được. Đồng thời Bộ còn cho dịch những danh từ mới về mọi ngành ra tiếng Hébreu để cho soạn sách từ cấp tiểu học đến đại học, tìm trong Thánh Kinh những chuyện cổ để dịch ra những ý niệm mới.

Vậy mà trong vòng 10 năm sau, ngành giáo dục của họ đã bắt kịp các nước tân tiến nhất. Ngôn ngữ mới được hồi sinh mà con cháu Abraham đã muốn tranh giành ảnh hưởng với các ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức !

Hai đại học lớn nhất tại Israël là đại học Jérusalem gồm đủ phân khoa và Viện Công Nghệ, nơi đào tạo các kỹ sư đủ mọi ngành, đặc biệt ngành canh nông và kỹ nghệ. Ngoài ra còn có một viện chuyên về nghiên cứu là Viện Khoa Học Weizmann – tên vị tổng thống đầu tiên của họ - ở Rehovoth với những ngành như vật lý, hạch tâm, điện tử, vi trùng học, vật lý thực nghiệm ..., một đại học ở Tel Aviv và nhiều trường đại học khác khắp nước.

Tân tiểu quốc Israël nằm trên bờ Địa Trung Hải, phía bắc giáp Liban và Syrie, phía đông giáp Jordanie, phía tây nam giáp Ai Cập, phía cực nam giáp Hồng Hải.

jerusalem.gif

DIỆN TÍCH (2004): 20.770 cây số vuông (7.477 cs vuông là đất chiếm đóng sau 1948).

với nhiều miền khí hậu khác hẳn nhau. Họ nhất quyết muốn lấy thánh địa Jérusalem làm thủ đô nhưng cho đến nay (2005), vì vấn đề Palestine, chỉ có hai quốc gia trên thế giới công nhận Jérusalem là thủ đô của Israël, đó là Salvador và Costa Rica. Do đó, trong mắt thế giới, châu thành ven biển tân tiến và rộng lớn Tel Aviv được coi như thủ đô tạm thời. Tel Aviv có nghĩa là Đồi Xuân. (Tôi đã sửng sờ, kinh ngạc xiết bao khi tận mắt nhìn thấy một Tel Aviv huy hoàng, hiện đại chẳng kém Nice, Cannes của Pháp tí nào và ghê cho sự năng động, quyết tâm của họ).

Các thành phố chính khác: Haïfa, Rishon Le-Zion, Petah Tiqwa, Ramat Gan, Beercheba, Nazareth.

DÂN SỐ: 6.559.000 người (2004)

trong đó có khoảng 19% là người Ả Rập (1,2 triệu), số còn lại gồm 53 thứ Do Thái từ khắp nơi tụ về. Xin lưu ý, từ khi thành lập quốc gia Israël (1948) người Do Thái ở trong nước được gọi là Israéliens / Israelis (công dân quốc gia Israël) để phân biệt với những người Do Thái ở hải ngoại (Juifs / Jews).

TỔNG SẢN LƯỢNG QUỐC GIA: 120.900.000.000 US$ (2003)

THU NHẬP BÌNH QUÂN NGƯỜI / NĂM: 19.800 US$ (2003)

TIỀN TỆ: Shekel, ký hiệu: NIS (New Israeli Shekel)

1 NIS = 0,18€ / 0, 22 US$ - 1 € = 5, 74 NIS; 1 US$ = 4, 54 NIS (17/07/2005)

NGÔN NGỮ CHÍNH THỨC: Tiếng Hébreu và tiếng Ả Rập. Ngoại ngữ thông dụng là tiếng Anh và tiếng Pháp.

CHÍNH THỂ: Cộng Hoà Đại Nghị. Đa đảng (13 đảng). Hai đảng lớn mạnh nhất hiện nay là Đảng Lao Động (tả phái) và Đảng Likoud (hữu phái) đang nắm quyền. Quốc hội (Knesset) gồm 120 nghị viên, có nhiệm vụ biểu quyết quyền lập pháp và kiểm soát chính phủ.

Tổng thống do quốc hội bầu ra, nhiệm kỳ 7 năm (trước chỉ 5 năm), mang tính cách biểu tượng, rất ít thực quyền. Tổng thống chỉ định thành phần trong tối cao pháp viện, nhiệm kỳ suốt đời (trong thực tế việc chỉ định nầy phải thông qua và có sự chấp thuận của quốc hội).Thủ tướng thường là người lãnh đạo đảng có số phiếu cao tuyệt đối hay liên minh đa số ghế trong quốc hội. Thủ tướng nắm quyền hành pháp, trực tiếp lãnh đạo đất nước, nhiệm kỳ 4 năm, nhưng khi hữu sự đa số trong quốc hội có quyền biểu quyết bải nhiệm thủ tướng trước hạn kỳ. Ví dụ: Tháng 11 năm 1995, thủ tướng Yitzhak Rabin bị ám sát, ông Shimon Peres lên thay nhưng chỉ 6 tháng sau, ông bị đa số trong quốc hội bỏ phiếu bất tính nhiệm, tổ chức bầu bán trước hạn kỳ, ông Peres thất cử, ông Benjamin Netanyahu lên nắm quyền (29/05/1996).

QUỐC KỲ hiện hành của Israël vốn là biểu tượng của phong trào Sionisme từ thế kỹ 19. Nền trắng. Trung tâm là hình sao David sáu cánh với hai gạch màu xanh dương nằm ngang trên và dưới.

QUỐC KHÁNH: 14/05.

QUÂN DỊCH: Công dân Israël từ 17 tuổi bất luận nam hay nữ ở trong hay ở ngoài nước: Nam: 3 năm toàn thời gian; Nữ: 2 năm toàn thời gian và sau đó 1 tháng dự bị mỗi năm (nam hay nữ khi còn độc thân).

QUÂN ĐỘI: 173.000 lính tại nhiệm + 425.000 dự bị = 598.000 (2002).

Israël chưa có văn bản chính thức về hiến pháp. Mọi điều hành của chính phủ thường dựa vào các điều luật của quốc hội, các quy ước lập hiến và bản tuyên ngôn độc lập của quốc gia Israël (1948).

Không phải vô tình mà Israël chưa"có nổi"một bản hiến pháp chính thức đâu mà hậu ý là muốn cô lập hay vô hiệu hoá cộng đồng thiểu số Ả Rập (1,2 triệu) trên mặt chính trị đối nội lẫn đối ngoại, ít ra cho đến khi Israël giải quyết êm thấm và bền vững được xung đột với Palestine và khối Ả Rập. Chưa có hiến pháp chính thức thì nhóm chủ thể Ashkénaze dễ dàng nắm trọn quyền điều hành đất nước. Ý kiến về bản hiến pháp đã được nêu ra, đòi hỏi cũng đã được lên tiếng, kêu gào từ nhiều năm qua, nhưng, viện cớ còn chiến tranh, Knesset"xin ghi nhận và đang nghiên cứu".

Việc kiến thiết tân quốc gia Israël, xét chung, người dân phải bắt đầu từ con số không. Ở đây, tôi chỉ xin đơn cử vài thí dụ điển hình mà theo tôi tóm gọn được nổ lực siêu phàm san bằng những trở ngại thiên nhiên của họ. Đó là sự phát triển kinh tế trên bãi sa mạc Neguev,"kẻ thù số một phải khuất phục của Israël"theo lời bà Golda Meir, thủ tướng Israël, 1969-1974).

Sa mạc Neguev (Neguev = Phía Nam) rộng hơn phân nửa diện tích toàn xứ Israël (13.000 cs vuông), nằm phía nam châu thành Tel Aviv, đỉnh cực nam là Hồng Hải với thành phố biển Eilat. Trước thế chiến vừa qua, Neguev hoàn toàn hoang vu khô cháy, lồi lõm. Văn minh tiến bộ như thực dân Anh mà còn chịu thua, không sao khai thác được.

Theo tôi, có hai nguyên nhân sâu xa khiến chính phủ Israël phải khai phá vùng cát"chết"nầy. Một là để nuôi dân: đất đai thì hẹp mà dân số tăng rất nhanh (qua các phong trào hồi hương tập thể). Hai là để củng cố mặt quốc phòng: không để khoảng đất rộng nào không có người ở hầu tránh sự xâm nhập của kẻ thù.

8/ Chiến thắng sa mạc



Thường tình người ta chỉ tính năng suất của đất đai theo diện tích, có nghĩa là mức sản xuất hàng năm được bao nhiêu mỗi héc-ta. Riêng tại Israël thì sự tính toán hơi lạ đời vì dân ở đây tính năng suất theo ... khối nước tưới ! Mỗi năm có bao nhiêu nước và mỗi khối nước sinh lợi được bao nhiêu. Bởi vậy, một mặt họ lo cách thức kiếm nước, một mặt họ tìm mọi cách hầu tránh chuyện nước bị hao hụt đi, chẳng hạn nước bị bốc hơi hay thấm vào lòng đất.

Phương pháp dẫn thủy nhập điền rất công phu tỉ mỉ ở Việt Nam hay ở Trung Quốc đã làm thế giới ngạc nhiên, song đem so với những nổ lực phi thường của dân tộc được Chúa chọn thì hãy còn kém xa.

Mỗi năm vùng sa mạc Neguev chỉ giữ được từ 2 đến 4 phân nước. Như vậy, muốn trồng trọt thì phải có nhiều nước, nhưng làm thế nào?

Vấn đề thiếu nước ở Israël là nguyên nhân sinh ra lắm thứ thuế oái oăm. Ví dụ: Trong giá tiền một chai bia được tiêu thụ, một nửa là thuế dành cho công cuộc tìm nước. Họ đã nghĩ đến việc đào giếng, dùng nước mưa và nước biển, nhưng lấy đâu cho đủ nước trong khi ở đây mưa chẳng mấy lúc; còn nước biển thì ngoài công dụng cho kỹ nghệ ra, súc vật còn chịu không nổi huống hồ cỏ cây. Cho nên họ bèn thăm dò những dòng nước ngầm dưới lòng đất nằm ven biển và đã khám phá ra những nơi nầy có một tầng đất không thấm nước, chứa lại khá nhiều nước ngọt, chẳng hạn trong khu Avedat.

Hiện nay số nước rút được từ các nơi đó là khoảng 140 triệu thước khối trong một năm. Những vùng có nước ngầm đã trở nên bồn nước thiên nhiên dành cho cả khu vực Yarkon – Neguev. Nhất là từ khi sử dụng được dòng sông lịch sử Jourdain, tổng lượng số nước rút được hàng năm lên tới 5 tỉ thước khối đủ dùng cho mọi nhà, mọi ngành kỹ nghệ và 4 triệu dounams đất khô cháy (10 dounams tương đương với 1 héc-ta).

Để tránh việc phí phạm nước, dân israéliens bơm xuống lòng đất hàng triệu thước khối nước - kể cả nước cống đã được lọc và khử trùng – cho khỏi bị bốc hơi. Thật chưa dân tộc nào cần"nước"như người Do Thái. Song xét ra phương pháp đặt ống dẫn nước vẫn hiệu nghiệm hơn cả. Ống dẫn nước ở Israël có lẽ là loại ống dẫn kỹ lục: dài từ 4 đến 170 cs, nặng không dưới 32 tấn, mỗi đoạn 5 thước đường kính và 3 thước bề dài, đặt ngay trên mặt đất, có khi phải xuyên núi, vượt đèo và thung lũng. Hệ thống dẫn nước của họ là cho nước chạy theo ống dẫn lớn, qua ống nhỏ, phân ra làm muôn ngàn nhánh mỗi lúc mỗi bé để rồi tung ra ruộng nương, vườn tược qua các máy nước chẳng khác gì các trận mưa nhân tạo.

Nước chảy đến đâu, người dân tìm theo đến đấy và sự canh tác tiến triển tùy nhịp nước lan mau hay chậm.

Thủ đô của sa mạc Neguev là thành phố Beersheva, tụ điểm của hầu hết những người Do Thái hồi hương từ khắp nơi trên thế giới. Chính Abraham đã đặt ra tên Beersheva (Giếng thề).

Dưới bầu trời sa mạc nóng cháy Neguev (trung bình 36° C), người ta thấy gồm đủ hạng người, từ anh kỹ sư, nhạc sĩ đến chị bán hàng, chú thợ máy; từ bác tiến sĩ, thím giáo sư đến cô y tá, em sinh viên, cậu cu li. Bấy giờ mọi dị biệt xã hội giữa họ đều được san bằng, tất cả chỉ còn là những đứa con của Israël chung vai sát cánh hồi sinh vùng Đất Hứa.

Nhờ những cố gắng, những hy sinh như thế mà ngày nay du khách ghé Israël sẽ thấy cả vùng sa mạc Neguev đã mơn mởn màu xanh của lúa và trổ đầy hoa trái. Các giống nho lừng danh của Pháp như Bordelais, Beaujolais, Bourgogne cũng đã"sống"được trên sa mạc, khai sinh ra một thứ rượu vang nổi tiếng trong vùng Darom. Mỗi độ thu về, các vườn cam, vườn quýt, vườn bưởi, vườn chanh, vườn chuối, vườn chà-là ... trổ bông hương thơm ngào ngạt đến tận châu thành Tel Aviv.

Và không thể không nhắc tới tiến sĩ Samuel Appelbaum (sinh năm 1942), giám đốc trung tâm Bengis thuộc đại học Ben Gourion (Beersheva), người đã thành công trong công trình nghiên cứu ứng dụng nước mặn và nóng dưới lòng sa mạc Neguev vào canh tác trồng trọt, đặc biệt như aquaculture và pisciculture (tạm dịch: Thủy canh và Bể canh). Trước thập niên 1990, ý nghĩ nuôi tôm cá trên sa mạc là điều không tưởng, là ý tưởng làm phịch cười giới khoa học, thế mà nay Samuel Appelbaum đã kiên trì và đã làm được, do đó được mệnh danh là nhà tiên tri thời hiện đại.


Tấm gương Do Thái


Đọc lịch sử phục quốc và kiến quốc của dân tộc Do Thái chúng ta học được rất nhiều điều quí báu, từ tinh thần quốc gia dân tộc đến tinh thần đoàn kết; từ ý chí phục quốc đến đức hy sinh, sức chịu đựng ghê gớm; từ kinh nghiệm định cư, giáo dục đến nông lâm mục súc; từ tổ chức cộng đồng đến tổ chức quân đội (1)... Nhưng 2 tấm gương cao quí nhất mà họ đã gián tiếp vạch ra cho chúng ta thấy, đó là cái họa Thực Dân, Đế Quốc và nhất là tinh thần Thượng Tôn Quyền Lợi Quốc Gia.

Thực dân, đế quốc nào, bất luận Đông Tây, cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ trước hết và sau cùng và dĩ nhiên bảo hộ, khai hoá, hữu nghị, tương trợ, đồng minh đồng miếc gì gì cũng chỉ là các loại bình phong che đậy những tà vọng trục lợi. Lỡ gian díu với thực dân đế quốc thì chóng chầy thế nào cũng điêu đứng, lầm than, tàn tạ với họ.

Hiện nay Israël có tất cả 13 đảng phái. Mỗi mùa bầu cử quốc hội các đảng phái cũng sôi nổi, cũng mánh mung như các nơi khác, nhưng sau đó, đảng nào lên nắm quyền cũng tuyệt đối thượng tôn quyền lợi quốc gia: Quyền lợi quốc gia là trước hết và sau cùng. Quốc gia là trên hết. Có thể tóm gọn thành "Dân vi quí, xã tắc thứ chi, đảng vi khinh".

Và người Do Thái gián tiếp cho các dân tộc đang phát triển (nghĩa là chưa phát triển nếu không muốn nói là đang nghèo khó) thấy rằng một dân tộc càng bị đẩy vào chỗ chết càng mau kiếm được lối sống, miễn là dân tộc đó có muốn hay không muốn thôi. Một khi đã quyết sống, tự cho mình là một thực tại dân tộc đặc thù thì thực dân, đế quốc, chủ thuyết đến từ phía nào cũng phải nhượng bộ, nhìn nhận cái thực tại độc lập đó !

Non 20 năm nay tôi làm việc và tiếp xúc khá nhiều với người Do Thái tại Tây Âu, mày mò tìm hiểu về họ và có dịp may qua Israël tu nghiệp hai lần, cho nên ngoài niềm khâm phục dành cho họ trên tổng thể, tôi có chút nhận xét ngoại vi, đó là có sự kỳ thị ngấm ngầm nhưng sâu sắc giữa hai nhóm Do Thái, đặc biệt cộng đồng Do Thái chủ thể Ashkénaze - tự cho mình là dân trí thức - vẫn có cái "nhìn xuống" đối với cộng đồng Do Thái Séfarade (hồi hương từ Bắc Phi) mà họ đánh giá là lái buôn, ít học. Lấy ví dụ ở Israël cho đến nay không hề có bộ trưởng nào cũng như chưa hề có một thẩm phán Do Thái gốc Ả Rập trong Tối Cao Pháp Viện. Từ khi lập quốc năm 1948 đến nay (2006), Israël có 8 tổng thống và 13 thủ tướng, tất cả đều gốc Ashkénaze. Đơn cử : Đương kim tổng thống là Moshé Katsav và trước cuộc chiến với Hezbollah, thủ tướng Ariel Sharon, cả hai trước thuộc đảng Likoud, nay ông Sharon thuộc đảng Kadima, và đương kim thủ tướng Ehud Olmert.

Sau chiến tranh ném đá 2 (Intifada 2), ở Jaffa, người Ả Rập mua bán trong các chợ Ả Rập, người Do Thái mua sắm trong các siêu thị. Thu nhập khác nhau, cách sống khác nhau, hai cộng đồng vẫn song hành, vẫn giao nhau nhưng chẳng thấy nhau. Đạo diễn Avi Mograbi từng viết "họ đã thành công khi làm biến mất người Ả rập trên đất nước" vì ở đây "người ta có thể nghe tiếng Hébreu, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh ... và mọi thứ tiếng khác TRỪ tiếng Ả Rập.[...] Văn tự Ả rập biến mất trên các tên đường. Mọi bảng hiệu hoàn toàn được kẻ bằng chữ Hébreu và chữ Anh, kể cả tên họ trên các chuông cửa".

Ngày 01/10/2000, quân đội Israël bắn chết 13 công dân Israël gốc Ả Rập trong một cuộc biểu tình tại Naplouse. Tại Tel Aviv, một số công dân Israël-Séfarade nghiệm ra rằng người ta có thể bắn sả vào họ như bắn người Ả-rập Palestine (năm 2000 có chừng 120.000 nhân công Ả -r â ậ p Palestine qua lại làm việc bên Israël), còn một số công dân Israël-Ashkénaze khám phá ra rằng các thợ thuyền hay các người giúp việc - gốc Ả Rập - trong gia đình mình có thể bất ngờ trở thành hiểm họa, cho nên đã thay thế lần lần bằng các nhân công di cư Nga, Roumanie, Philippine...Cứ đà nầy, Tel Aviv sẽ thực hiện được giấc mơ thuở ban đầu: Thành phố dành riêng cho người Do Thái-Ashkénaze.

Do đó mới nảy ra câu hỏi: Cái gì đã tạo ra cái gì? Khủng hoảng Do Thái - Palestine đã tạo ra sự kỳ thị Ả Rập hay sự kỳ thị Ả Rập là nguyên nhân kéo dài không biết đến bao giờ khủng hoảng Do Thái - Palestine? Và câu hỏi này làm tôi suy nghĩ lung về chúng ta, Trong và Ngoài: "Những chân lý khác biệt ở vẻ ngoài xem chừng tượng tự vô số những chiếc lá trông khác nhau nhưng nằm chung trên một gốc cây". (Bapu Mahatma Gandhi: Lettres à Asbram).

Trích lược: Vietsciences-HànLệ Nhân

No comments:

Post a Comment