TỪ GIẢI NOBEL KINH TẾ HỌC NĂM 2007 TÌM HIỂU VỀ NGUỒN GỐC LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI VÀ MỘT SỐ ỨNG DỤNG
Xin giới thiệu đến các bạn nào muốn tìm hiểu thêm về Lý thuyết trò chơi (Phần I giới thiệu một số công trình khoa học gần đây – Phần II sẽ giới thiệu một số ứng dụng cơ bản)
Lý thuyết trò chơi – théorie des jeux là môt phân nghành toán học ứng dụng nhằm mô hình hóa thức hóa các trạng thái xung đột và sự phân tích các hiện tượng va chạm trong sự phong phú và sự phức tạp của chúng. Những nghiên cứu lý luận đầu tiên được bắt đầu vào thế kỷ XVII (Pascal, Fermat, Mernoulli).
Tuy nhiên lý thuyết này phát triển chủ yếu đã diễn ra trong thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiến, với F. Knight (1921), E. Borel (1923), J. von Neumann ( 1928). Tác phẩm kinh điển của J. von Neumann và O. Morgenstern (Lý thuyết trò chơi và kinh tế của Behavior, xuất bản năm 1944), trong khi tổng kết lại những nghiên cứu trong lĩnh vực này, đã đánh dấu một sự chuyển hướng tiếp cận trong lý thuyết với các môn khoa học xã hội. cuối cùng những nhà nghiên cứu của G. Nash, R. Aumannn, J.-C. Hasanyi, M. Shubik, Hildenbrand, G. Debreu, trong vòng ba mươi năm trở lại đây, đã thực sự làm phát triển và phong phú đáng kể lý thuyết nhờ những định lý chung mới và những tình huống trò chơi mới được nghiên cứu và ứng dụng của chúng.
PHẦN 1 CÂN BẰNG TRONG LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI PHI HỢP TÁC
fnash.jpgJohn Forbes Nash Harsanyi.jpg
John Charles Harsanyi
1920-2000
selten.jpgReinhard Selten
(Giải Nobel kinh tế học năm 1994)
John Charles Harsanyi sinh tháng 5 năm 1920 tại Budapest, Hungary, Công dân Mỹ. Ông là Giáo sư danh dự về Quản trị kinh doanh và Giáo sư danh dự về Kinh tế học, Trường Đại học Tổng hợp California, Berkeley. Ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ như, Trợ lý Trường Đại học tổng hợp Budapest, Hungary, năm (1947-1948); giảng viên Kinh tế học, Trường Đại học Tổng hợp Queensland, Brisbane, Australia (1954-1956); chuyên viên nghiên cứu, Quỹ Cowles tại Trường Đại học Tổng hợp Yale, 1957; giáo sư thỉnh giảng, Trường Đại học Tổng hợp Stanford, 1958; thành viên cao cấp Trường Đại học Quốc gia Australia tại Canberra (1951-1961); Giáo sư kinh tế học, Trường Đại học Tổng hợp bang Wayne, (1961-1963); giáo sư, Trường Đại học Tổng hợp California tại Berkeley, (1964-1990). Ông là tiến sỹ triết học, Trường Đại học Tổng hợp Budapest, Hungary, 1947. Thạc sỹ Trường Đại học Tổng hợp Sydney, Australia, 1953. Tiến sĩ khoa học, Trường Đại học Tổng hợp Stanford, 1959.
Lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu của ông là Lý thuyết trò chơi, Lý thuyết quyết định, Toán kinh tế, việc sử dụng mô hình lựa chọn hợp lý trong khoa học chính trị và trong xã hôi học, đạo đức học vị lợi, triết học.
Jonh F. Nash (con) sinh ngày 13 tháng 6 năm 1928 tại Bluefield, Tây Virginia (Mỹ). Ông học Trường Tổng hợp Carnegie- Mellon. Là tiến sĩ Trường Đại học Tổng hợp Tiburg, Hà lan.
Giáo sư Reinhard Selten sinh ngày 10 tháng 10 năm 1930 tại Breslan (Đức). Học đại học và thạc sỹ tại Trường Tổng hợp Frank Furt. Giáo sư Trường Đại học Rheinsche Friedrich- Withelms Bohn CHLB Đức.
Chúng ta biết rằng, có nhiều tình huống trong xã hội, từ cuộc sống đời thường tới chính trị học bậc cao, được đặc trưng hóa bởi cái mà các nhà kinh tế học gọi là các tương tác chiến lược. khi có một tương tác chiến lược, kết quả đối với một chủ thể không chỉ phụ thuộc vào những gì chủ thể ấy làm, mà còn phụ thuộc ở mức độ lớn vào việc các chủ thể khác hành động và phản ứng như thế nào. Một hãng tiến hành giảm giá để thu hút thêm khách hàng sẽ không thành công trong chiến lược này nếu các hãng lớn khác trong thị trường cũng sử dụng đúng chiến lược đó. Viêc một đảng phái chính trị có thành công hay không trong viên thu hút thêm những cử tri ủng hộ mình bằng cách đề xuất những mức thuế thấp hơn hay chi tiêu nhiều hơn, phụ thuộc vào những đề xuất của các đảng khác. Thành công của một ngân hàng trung ương đang cốt gắng chống lạm phát bằng cách duy trì tỷ giá cố định phụ thuộc vào các quyết định đối với chính sách tài khóa cũng như vào nhũng phản ứng trên các thị trường lao động và hàng hóa.
Một ví dụ về kinh tế đơn giản về tương tác chiến lược là khi hai hãng đang cạnh tranh với nhau trên cùng một thị trường về cùng một số sản phẩm. Nếu một hãng tăng sản lượng của mình lên, thì điều này sẽ làm giá thị trường giảm xuống và do đó làm giảm lợi nhuận của hãng kia. Hãng kia đương nhiên sẽ đối phó, chẳng hạn bằng cách cũng tăng sản lượng và nhờ đó duy trì được thị phần của mình, nhưng với phí tổn tiếp tục làm giảm giá thị trường. Vì vậy, hãng thứ nhất phải dự đoán được phản ứng này cũng như các phản ứng tiếp theo có thể có khi nó quyết định tăng quy mô sản xuất . Liệu chúng ta có thể dự đoán được các bên sẽ lựa chọn những chiến lược như thế nào trong tình huống tương tự?
Ngay từ những năm 1830, nhà kinh tế học người Pháp, Auguste Cornot, đã tiến hành nghiên cứu về kết cục có thể sảy ra khi hai hãng cạnh tranh trên cùng một thị trường. Rất nhiều những nhà kinh tế học và các nhà khoa học xã hội sau này đã cố gắng phân tích hậu quả của tương tác chiến lược dưới những hình thái cụ thể khác. Tuy nhiên, trước khi lý thuyết trò chơi ra đời, không có một hệ thống công cụ nào giúp các học giả tiếp cận tới một phương pháp chung nhưng chặt chẽ trong việc phân tích các hình thái khác nhau của tương tác chiến lược.
Ngày nay tình hình đã hoàn toàn khác, Các tạp chí khoa học, các giáo trình tiên tiên đầy ắp các phân tích dựa trên lý thuyết trò chơi, vì lý thuyết này đã được xây dựng bởi những người được Giải thưởng Nobel kinh tế học của năm 1994 là Jonh C. Harsanyi, Jonh F. Nash và Rienard Selten.
gametheory2.jpgLý thuyết trò chơi phi hợp tác xử lý những tình huống mà ở đó, các bên tham gia không được đưa ra những thỏa thuận ràng buộc nhau. Ngay cả trong những trò chơi hết sức phức tạp với nhiều bên tham gia và nhiều chiến lược được sử dụng, thì vẫn có thể miêu tả được kết cục theo một cái gọi là cân bằng Nash. Jonh Nash đã chỉ ra rằng có ít nhất một kết quả ổn định, trong đó không một người chơi nào có thể cải thiện được kết cục của mình bằng cách lựa chọn một chiến lược khác, khi tất cả những người chơi đều có những dự đoán chính xác về chiến lược của nhau. Ngay cả khi mỗi bên tham gia hành động một cách hợp lý xét theo phương diện cá nhân, cân bằng Nash chỉ ra rằng tương tác chiến lược có thể thường xuyên đem đến một kết quả tổng hợp không hợp lý: chiến tranh thương mại hoặc phát thải ô nhiễm quá mức đe dọa môi trường toàn cầu là những ví dụ trên quy mô quốc tế. Cũng cần nói thêm rằng, cân bằng Nash cũng hết sức quan trọng trong khuôn khổ hệ sinh thái tiến hóa - nó miêu tả chọn lọc tự nhiên như là một tương tác chiến lược trong các loài và giữa chúng.
Trong nhiều trò chơi, người chơi không có thông tin đầy đủ về mục tiêu của nhau. Thí dụ, nếu chính phủ muốn nới lỏng quản lý đối với một hãng, nhưng lại không biết gì về tình hình chi phí của hãng, trong khi ban quản lý hãng lại nắm rõ thông tin này, ta có một trò chơi với thông tin không đầy đủ. Trong ba bài báo được công bố vào cuối thập kỷ 60, Jonh Harsanyi đã chỉ ra khả năng mở rộng sự phân tích cân bằng để giải quyết khó khăn này, khó khăn mà các nhà lý thuyết trò chơi cho tới lúc đó vẫn coi là không thể vượt qua. Cách tiếp cận của Harsanyi đã đặt nền tảng phân tích cho một số lĩnh vực nghiên cứu sinh động, trong đó có kinh tế học thông tin, môn học bắt đầu từ một thực tế rằng những người ra quyết định khác nhau, trên một thị trường hoặc trong một tổ chức, thường có quyền tiếp cận tới những thông tin không giống nhau. Những lĩnh vực này bao gồm rất nhiều vấn đề, từ những hợp đồng giữa các cổ đông và ban quản lý một công ty, cho đến các thể chế trong các nước đang phát triển.
Một vấn đề liên quan đến cân bằng Nash là trong ngững trò chơi phi hợp tác có thể có nhiều cân bằng. điều đó có thể gây khó khăn cho cả những người chơi lẫn nhà phân tích đứng ngoài cuộc trong việc dự đoán kết quả. Thông qua các khái niệm về “ hoàn hảo” của mình. Reinhard Selten đã đặt nền tảng cho chương trình nghiên cứu nhằm cố gắng loại bỏ các cân bằng không khả thi hoặc không hợp lý. Trên thực tế, có những cân bằng Nash có thể dựa trên những đe dọa hoặc hứa hẹn nhằm khiến cho những người chơi khác lựa chọn một số lựa chọn một số chiến lược nhất định. Những đe dọa hứa hẹn này thường là rỗng, vì việc thực hiện chúng không phải là mối quan tâm của người chơi, nếu một tình huống phát sinh mà trong đó anh ta đã đe dọa thực hiện chúng. Bằng cách loại bỏ các đe dọa hoặc hứa hẹn “rỗng” này, Selten có thể đưa ra những dự đoán vững chắc hơn về kết cục dưới hình thái của cái gọi là những cân bằng hoàn hảo.
Những đóng góp của Selten có tầm quan trọng vô cùng lớn trong phân tích khía cạnh động học của tương tác chiến lược, chẳng hạn giữa các hãng đang cố gắng chiếm lấy những địa vị thống trị trên thị trường, hoặc các chủ thể tư nhân và một chính phủ đang cố gắng thực thi một chính sách nào đó. Phân tích các trò chơi với thông tin không đầy đủ là công lao của Jonn Harsanyi và nó có tầm quan trọng vô cùng lớn lao đối với kinh tế học thông tin.
Lý thuyết trò chơi của John Nash đã có những tác dụng hết sức sâu sắc đến con đường phát triển của lý thuyết kinh tế trong hơn hai thập kỷ vừa qua.
Khái niệm hoàn hảo của Renhard Selten trong phân tích cân bằng đã mở rộng đáng kể việc ứng dụng lý thuyết trò chơi phi hợp tác.
Còn nữa
Xin giới thiệu đến các bạn nào muốn tìm hiểu thêm về Lý thuyết trò chơi (Phần I giới thiệu một số công trình khoa học gần đây – Phần II sẽ giới thiệu một số ứng dụng cơ bản)
Lý thuyết trò chơi – théorie des jeux là môt phân nghành toán học ứng dụng nhằm mô hình hóa thức hóa các trạng thái xung đột và sự phân tích các hiện tượng va chạm trong sự phong phú và sự phức tạp của chúng. Những nghiên cứu lý luận đầu tiên được bắt đầu vào thế kỷ XVII (Pascal, Fermat, Mernoulli).
Tuy nhiên lý thuyết này phát triển chủ yếu đã diễn ra trong thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiến, với F. Knight (1921), E. Borel (1923), J. von Neumann ( 1928). Tác phẩm kinh điển của J. von Neumann và O. Morgenstern (Lý thuyết trò chơi và kinh tế của Behavior, xuất bản năm 1944), trong khi tổng kết lại những nghiên cứu trong lĩnh vực này, đã đánh dấu một sự chuyển hướng tiếp cận trong lý thuyết với các môn khoa học xã hội. cuối cùng những nhà nghiên cứu của G. Nash, R. Aumannn, J.-C. Hasanyi, M. Shubik, Hildenbrand, G. Debreu, trong vòng ba mươi năm trở lại đây, đã thực sự làm phát triển và phong phú đáng kể lý thuyết nhờ những định lý chung mới và những tình huống trò chơi mới được nghiên cứu và ứng dụng của chúng.
PHẦN 1 CÂN BẰNG TRONG LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI PHI HỢP TÁC
fnash.jpgJohn Forbes Nash Harsanyi.jpg
John Charles Harsanyi
1920-2000
selten.jpgReinhard Selten
(Giải Nobel kinh tế học năm 1994)
John Charles Harsanyi sinh tháng 5 năm 1920 tại Budapest, Hungary, Công dân Mỹ. Ông là Giáo sư danh dự về Quản trị kinh doanh và Giáo sư danh dự về Kinh tế học, Trường Đại học Tổng hợp California, Berkeley. Ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ như, Trợ lý Trường Đại học tổng hợp Budapest, Hungary, năm (1947-1948); giảng viên Kinh tế học, Trường Đại học Tổng hợp Queensland, Brisbane, Australia (1954-1956); chuyên viên nghiên cứu, Quỹ Cowles tại Trường Đại học Tổng hợp Yale, 1957; giáo sư thỉnh giảng, Trường Đại học Tổng hợp Stanford, 1958; thành viên cao cấp Trường Đại học Quốc gia Australia tại Canberra (1951-1961); Giáo sư kinh tế học, Trường Đại học Tổng hợp bang Wayne, (1961-1963); giáo sư, Trường Đại học Tổng hợp California tại Berkeley, (1964-1990). Ông là tiến sỹ triết học, Trường Đại học Tổng hợp Budapest, Hungary, 1947. Thạc sỹ Trường Đại học Tổng hợp Sydney, Australia, 1953. Tiến sĩ khoa học, Trường Đại học Tổng hợp Stanford, 1959.
Lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu của ông là Lý thuyết trò chơi, Lý thuyết quyết định, Toán kinh tế, việc sử dụng mô hình lựa chọn hợp lý trong khoa học chính trị và trong xã hôi học, đạo đức học vị lợi, triết học.
Jonh F. Nash (con) sinh ngày 13 tháng 6 năm 1928 tại Bluefield, Tây Virginia (Mỹ). Ông học Trường Tổng hợp Carnegie- Mellon. Là tiến sĩ Trường Đại học Tổng hợp Tiburg, Hà lan.
Giáo sư Reinhard Selten sinh ngày 10 tháng 10 năm 1930 tại Breslan (Đức). Học đại học và thạc sỹ tại Trường Tổng hợp Frank Furt. Giáo sư Trường Đại học Rheinsche Friedrich- Withelms Bohn CHLB Đức.
Chúng ta biết rằng, có nhiều tình huống trong xã hội, từ cuộc sống đời thường tới chính trị học bậc cao, được đặc trưng hóa bởi cái mà các nhà kinh tế học gọi là các tương tác chiến lược. khi có một tương tác chiến lược, kết quả đối với một chủ thể không chỉ phụ thuộc vào những gì chủ thể ấy làm, mà còn phụ thuộc ở mức độ lớn vào việc các chủ thể khác hành động và phản ứng như thế nào. Một hãng tiến hành giảm giá để thu hút thêm khách hàng sẽ không thành công trong chiến lược này nếu các hãng lớn khác trong thị trường cũng sử dụng đúng chiến lược đó. Viêc một đảng phái chính trị có thành công hay không trong viên thu hút thêm những cử tri ủng hộ mình bằng cách đề xuất những mức thuế thấp hơn hay chi tiêu nhiều hơn, phụ thuộc vào những đề xuất của các đảng khác. Thành công của một ngân hàng trung ương đang cốt gắng chống lạm phát bằng cách duy trì tỷ giá cố định phụ thuộc vào các quyết định đối với chính sách tài khóa cũng như vào nhũng phản ứng trên các thị trường lao động và hàng hóa.
Một ví dụ về kinh tế đơn giản về tương tác chiến lược là khi hai hãng đang cạnh tranh với nhau trên cùng một thị trường về cùng một số sản phẩm. Nếu một hãng tăng sản lượng của mình lên, thì điều này sẽ làm giá thị trường giảm xuống và do đó làm giảm lợi nhuận của hãng kia. Hãng kia đương nhiên sẽ đối phó, chẳng hạn bằng cách cũng tăng sản lượng và nhờ đó duy trì được thị phần của mình, nhưng với phí tổn tiếp tục làm giảm giá thị trường. Vì vậy, hãng thứ nhất phải dự đoán được phản ứng này cũng như các phản ứng tiếp theo có thể có khi nó quyết định tăng quy mô sản xuất . Liệu chúng ta có thể dự đoán được các bên sẽ lựa chọn những chiến lược như thế nào trong tình huống tương tự?
Ngay từ những năm 1830, nhà kinh tế học người Pháp, Auguste Cornot, đã tiến hành nghiên cứu về kết cục có thể sảy ra khi hai hãng cạnh tranh trên cùng một thị trường. Rất nhiều những nhà kinh tế học và các nhà khoa học xã hội sau này đã cố gắng phân tích hậu quả của tương tác chiến lược dưới những hình thái cụ thể khác. Tuy nhiên, trước khi lý thuyết trò chơi ra đời, không có một hệ thống công cụ nào giúp các học giả tiếp cận tới một phương pháp chung nhưng chặt chẽ trong việc phân tích các hình thái khác nhau của tương tác chiến lược.
Ngày nay tình hình đã hoàn toàn khác, Các tạp chí khoa học, các giáo trình tiên tiên đầy ắp các phân tích dựa trên lý thuyết trò chơi, vì lý thuyết này đã được xây dựng bởi những người được Giải thưởng Nobel kinh tế học của năm 1994 là Jonh C. Harsanyi, Jonh F. Nash và Rienard Selten.
gametheory2.jpgLý thuyết trò chơi phi hợp tác xử lý những tình huống mà ở đó, các bên tham gia không được đưa ra những thỏa thuận ràng buộc nhau. Ngay cả trong những trò chơi hết sức phức tạp với nhiều bên tham gia và nhiều chiến lược được sử dụng, thì vẫn có thể miêu tả được kết cục theo một cái gọi là cân bằng Nash. Jonh Nash đã chỉ ra rằng có ít nhất một kết quả ổn định, trong đó không một người chơi nào có thể cải thiện được kết cục của mình bằng cách lựa chọn một chiến lược khác, khi tất cả những người chơi đều có những dự đoán chính xác về chiến lược của nhau. Ngay cả khi mỗi bên tham gia hành động một cách hợp lý xét theo phương diện cá nhân, cân bằng Nash chỉ ra rằng tương tác chiến lược có thể thường xuyên đem đến một kết quả tổng hợp không hợp lý: chiến tranh thương mại hoặc phát thải ô nhiễm quá mức đe dọa môi trường toàn cầu là những ví dụ trên quy mô quốc tế. Cũng cần nói thêm rằng, cân bằng Nash cũng hết sức quan trọng trong khuôn khổ hệ sinh thái tiến hóa - nó miêu tả chọn lọc tự nhiên như là một tương tác chiến lược trong các loài và giữa chúng.
Trong nhiều trò chơi, người chơi không có thông tin đầy đủ về mục tiêu của nhau. Thí dụ, nếu chính phủ muốn nới lỏng quản lý đối với một hãng, nhưng lại không biết gì về tình hình chi phí của hãng, trong khi ban quản lý hãng lại nắm rõ thông tin này, ta có một trò chơi với thông tin không đầy đủ. Trong ba bài báo được công bố vào cuối thập kỷ 60, Jonh Harsanyi đã chỉ ra khả năng mở rộng sự phân tích cân bằng để giải quyết khó khăn này, khó khăn mà các nhà lý thuyết trò chơi cho tới lúc đó vẫn coi là không thể vượt qua. Cách tiếp cận của Harsanyi đã đặt nền tảng phân tích cho một số lĩnh vực nghiên cứu sinh động, trong đó có kinh tế học thông tin, môn học bắt đầu từ một thực tế rằng những người ra quyết định khác nhau, trên một thị trường hoặc trong một tổ chức, thường có quyền tiếp cận tới những thông tin không giống nhau. Những lĩnh vực này bao gồm rất nhiều vấn đề, từ những hợp đồng giữa các cổ đông và ban quản lý một công ty, cho đến các thể chế trong các nước đang phát triển.
Một vấn đề liên quan đến cân bằng Nash là trong ngững trò chơi phi hợp tác có thể có nhiều cân bằng. điều đó có thể gây khó khăn cho cả những người chơi lẫn nhà phân tích đứng ngoài cuộc trong việc dự đoán kết quả. Thông qua các khái niệm về “ hoàn hảo” của mình. Reinhard Selten đã đặt nền tảng cho chương trình nghiên cứu nhằm cố gắng loại bỏ các cân bằng không khả thi hoặc không hợp lý. Trên thực tế, có những cân bằng Nash có thể dựa trên những đe dọa hoặc hứa hẹn nhằm khiến cho những người chơi khác lựa chọn một số lựa chọn một số chiến lược nhất định. Những đe dọa hứa hẹn này thường là rỗng, vì việc thực hiện chúng không phải là mối quan tâm của người chơi, nếu một tình huống phát sinh mà trong đó anh ta đã đe dọa thực hiện chúng. Bằng cách loại bỏ các đe dọa hoặc hứa hẹn “rỗng” này, Selten có thể đưa ra những dự đoán vững chắc hơn về kết cục dưới hình thái của cái gọi là những cân bằng hoàn hảo.
Những đóng góp của Selten có tầm quan trọng vô cùng lớn trong phân tích khía cạnh động học của tương tác chiến lược, chẳng hạn giữa các hãng đang cố gắng chiếm lấy những địa vị thống trị trên thị trường, hoặc các chủ thể tư nhân và một chính phủ đang cố gắng thực thi một chính sách nào đó. Phân tích các trò chơi với thông tin không đầy đủ là công lao của Jonn Harsanyi và nó có tầm quan trọng vô cùng lớn lao đối với kinh tế học thông tin.
Lý thuyết trò chơi của John Nash đã có những tác dụng hết sức sâu sắc đến con đường phát triển của lý thuyết kinh tế trong hơn hai thập kỷ vừa qua.
Khái niệm hoàn hảo của Renhard Selten trong phân tích cân bằng đã mở rộng đáng kể việc ứng dụng lý thuyết trò chơi phi hợp tác.
Còn nữa
No comments:
Post a Comment