Đây là môt loại thuế đánh trên lượng vốn do cá nhân hay doanh nghiệp thu được. Lượng vốn này là khoản lãi mà nhà đầu tư thu được từ việc bán các tài sản vốn tại một mức giá cao hơn mức giá khi họ mua tài sản này. Một nhà đầu tư có thể nắm giữ các cổ phiếu mà giá của chúng tăng liên tục qua các năm, tuy nhiên chỉ khi nào nhà đầu tư này bán số cổ phiếu của mình thì họ mới bị đánh thuế. Luật thuế của các quốc gia thì có nhiều nét khác nhau song nhìn chung đều áp dụng một số mô hình thuế thặng dư vốn nhất định.
Dưới đây là hệ thống thuế tại một số nơi trên thế giới:
Australia : Chỉ phải trả thuế đánh trên thặng dư vốn tại Australia khi nào có thặng dư vốn từ hoạt động đầu tư. Đây không phải là một sắc thuế riêng mà nó là một bộ phận của hệ thống thuế thu nhập. Thặng dư vốn là tiền thu được từ việc bán tài sản sau khi đã trừ đi chi phí ban đầu của nó. Miễn giảm thuế được xét cho từng trường hợp cụ thể. Kể từ ngày 21 tháng 9 năm 1999, các cá nhân và quỹ tương hỗ sẽ được giảm 50 % thuế thặng dư vốn đối với các giao dịch phát sinh sau thời gian này.
Bỉ: Bỉ không đánh thuế trên vốn thặng dư.
Canada: Tại quốc gia này, 50% thặng dư vốn sẽ bị đánh thuế với mức thuế thu nhập bình thường. Hiện tại vẫn chưa có sự khác biệt giữa thặng dư vốn dài hạn và thặng dư vốn ngắn hạn. Tuy nhiên cũng có một vài ngoại lệ, ví dụ như bán nhà riêng là một hoạt động không chịu thuế.
Pháp: Các khoản thặng dư vốn đều chịu chung một mức thuế là 27%, tuy nhiên trong một số trường hợp đặ biệt mức thuế này có thể được giảm xuống hoặc miễn trừ (vd: bán nhà riêng )
Đức: Hiện tại Đức vẫn chưa đánh thuế đối với lượng vốn thu được sau khi nắm giữ bất động sản trong vòng 10 năm hoặc cổ phiếu trong khoảng thời gian 1 năm. Tuy nhiên Quốc gia này đang lên kế hoạch áp dụng thuế trên vốn thặng dư với mức thuế suất từ 20% đến 30%, bắt đầu vào năm 2008 hoặc 2009.
Hồng Kông: Hồng Kông không đánh thuế đối với thặng dư vốn. Điều này đã tạo kẽ hở trong luật pháp, từ đó các giám đốc có thể lựa chọn hưởng mức lương khoảng 600.000HK$ và sở hữu một số cổ phần hoặc quyền chọn cổ phiếu, do đó họ được hưởng mức thuế thu nhập thấp nhất.
Ấn Độ: Hiện tại Ấn Độ vẫn chưa áp loại thuế này đối với các cổ phiếu có thời gian nắm giữ trên 3 năm. Tuy nhiên, các cổ phiếu ngắn hạn vẫn phải chịu mức thuế là 10%
Từ năm 2006, cổ phiếu được coi là vốn dài hạn nếu thời gian nắm giứ từ một năm trở lên. Thặng dư vốn đầu tư dài hạn sẽ chịu mức thuế suất là 10% đến 30%.
Thặng dư vốn ngắn hạn vẫn bị đánh thuế như thường, tuy nhiên nếu đầu tư ngắn hạn tương tự mà bị lỗ thì có thể dùng thặng dư này để bù đắp.
Ba Lan: Kể từ năm 2004, Ba Lan áp dụng một mức thuế chung là 19% đối với thặng dư vốn. Trong đó bao gồm: bán cổ phần, trái phiếu, cổ phần quỹ tương hỗ và cả lãi suất tiền gửi tại ngân hàng.
Singapore: Singapore không đánh thuế thặng dư vốn.
Thụy Điển: Mức thuế này ở Thụy Điển là 30%.
Thụy Sỹ: Không áp thuế.
Thái Lan: Không có riêng sắc thuế đối với thặng dư vốn ở Thái Lan. Toàn bộ thặng dư vốn đều chịu cùng một mức thuế như các thu nhập thông thường khác. Tuy nhiên nếu các cá nhân thu được thặng dư vốn từ các chứng khoán trên sàn chứng khoán Thái Lan, thu nhập này sẽ không bị đánh thuế thu nhập cá nhân.
Mỹ: Đối với thặng dư vốn dài hạn, tức là thu nhập từ việc bán các tài sản có thời gian nắm giữ trên 1 năm, mức thuế là 15% hoặc 5% đối với cá nhân có thu nhập thấp. Các khoản thặng dư ngắn hạn bị áp mức thuế cao hơn, đó là chịu mức thuế thu nhập thông thường. Tuy nhiên vào năm 2011, chính phủ Mỹ dự định sẽ có sự điều chỉnh đối với loại thuế này, có thể tăng lên mức 20% như trước năm 2003
Tổng hợp
No comments:
Post a Comment