IAS đưa ra chi tiết các định nghĩa, phương pháp làm, cách trình bày và những thông tin bắt buộc phải có trong các BCTC, nhưng không đưa ra những biểu mẫu báo cáo bắt buộc tất cả các công ty phải tuân theo, bởi các công ty có quy mô, đặc điểm ngành nghề kinh doanh rất khác nhau. Chế độ kế toán Việt Nam không những đưa ra một hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, bắt buộc, mà còn đưa ra các biểu mẫu BCTC thống nhất, bắt buộc cho tất cả các DN áp dụng.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Thứ nhất, lãi từ hoạt động kinh doanh không đúng. Lãi từ hoạt động kinh doanh của một công ty là nguồn lãi quan trọng nhất và ổn định nhất. Còn lãi từ hoạt động tài chính hay các hoạt động khác, về nguyên tắc thường không ổn định và khó dự đoán. Vì vậy, trong chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế, lãi kinh doanh là các khoản lãi/lỗ từ hoạt động kinh doanh thông thường của DN, không bao gồm các khoản thu nhập và chi phí tài chính (chi phí lãi vay). Tuy nhiên, theo VAS 21 thì "Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh" bao gồm cả lợi nhuận và chi phí tài chính. Điều này khiến NĐT dễ nhầm lẫn rằng, lãi kinh doanh của công ty trong năm tới nếu không có gì đặc biệt nó sẽ ở mức tương tự. Ngoài ra, từ "thuần" cũng nên bỏ, vì "lãi thuần" thường đã trừ thuế.
Thứ hai, lãi cơ bản mỗi cổ phiếu (EPS) chưa tính đúng. Theo VAS 30, Thông tư số 21/2006/TT-BTC hướng dẫn VAS 30 và IAS 33, EPS cơ bản được tính bằng cách chia tổng lãi/lỗ thuần thuộc các cổ đông phổ thông cho số bình quân gia quyền cổ phiếu phổ thông lưu hành trong kỳ. Đối với tử số, VAS 30 không đề cập đến việc điều chỉnh giảm các khoản lãi không dành cho cổ đông phổ thông như quỹ khen thưởng khách hàng, quỹ thưởng cho HĐQT, đặc biệt là quỹ khen thưởng, phúc lợi dành cho nhân viên. Những khoản này, theo IAS, được ghi nhận là các khoản chi phí để trừ ra khỏi lãi dành cho cổ đông. Thông thường, sau một năm hoạt động có lãi, các công ty dành khoảng 5 - 15% tổng số lãi thuần sau thuế để chi cho nhân viên dưới hình thức lập quỹ khen thưởng, phúc lợi. Đối với mẫu số, theo quy định của Việt Nam, khi những sự kiện chia tách cổ phiếu, thưởng cổ phiếu, chia cổ tức bằng cổ phiếu thì cổ phiếu lại được tính từ ngày đầu tiên trong kỳ.
Thứ ba, EPS không điều chỉnh hồi tố hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ. Thông tư 21 quy định, trong trường hợp gộp, chia tách và thưởng cổ phiếu mà không có bất cứ sự tăng, giảm về dòng tiền hay tài sản và nguồn vốn của công ty, thì cổ phiếu gộp, chia tách, thưởng mặc dù phát sinh bất cứ thời điểm nào trong kỳ cũng phải được tính vào ngày đầu tiên của năm báo cáo. Và cũng sẽ điều chỉnh tương ứng cho số cổ phiếu của những năm trước để có tính so sánh giữa các năm. Thực tế, trong BCTC của các công ty niêm yết, hầu hết đều chưa thực hiện việc điều chỉnh này, làm các NĐT rất khó khăn để có được thông tin chính xác về EPS. Trường hợp phát hành quyền mua cổ phiếu mới cho cổ đông hiện hữu với giá thấp hơn giá thị trường, EPS cũng cần phải được điều chỉnh lại, do ở đây đã bao gồm yếu tố thưởng. Khi phân tích tăng trưởng EPS các năm, NĐT nên so sánh EPS đã điều chỉnh, chứ không so sánh EPS gốc. Ngoài ra, mặc dù Thông tư 21 không đề cập đến việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, nhưng bản chất của việc này giống như thưởng cổ phiếu, điều này được ghi rất rõ trong IAS 33. Chế độ kế toán Việt Nam nên bổ sung vấn đề này.
Thứ tư, không trình bày EPS pha loãng (diluted EPS). Các công ty có thể phát hành những cổ phiếu tiềm năng như trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi, các quyền mua mà nó sẽ chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông trong tương lai. Khi đó, EPS của công ty sẽ thay đổi rất lớn do công ty tăng một lượng lớn cổ phiếu phổ thông nhưng không có thêm dòng tiền vào. Trong những hợp như vậy, nếu NĐT dùng EPS cơ bản để dự đoán EPS cho tương lai có thể sẽ dẫn đến những sai lầm. Bởi vậy, IAS 33 yêu cầu bắt buộc báo cáo kết quả kinh doanh của các công ty phải trình bày cả hai chỉ tiêu EPS cơ bản và EPS pha loãng, nhưng chế độ kế toán Việt Nam không quy định vấn đề này.
Bảng cân đối kế toán
Thứ nhất, vốn chủ sở hữu gồm cả những khoản không thuộc chủ sở hữu. Một số khoản phải trả thưởng cho nhân viên, cho HĐQT như các quỹ khen thưởng phúc lợi, thực chất là các khoản phải trả, chứ không thuộc vốn chủ sở hữu, nhưng vẫn được báo cáo trong mục vốn chủ sở hữu. Nó cần phải được loại ra khỏi vốn chủ sở hữu và đối xử như các khoản chi phí phải trả.
Thứ hai, các khoản cổ tức phải trả nên được ghi giảm "Lãi chưa phân phối". Đa phần các công ty đều chia cổ tức lần cuối hoặc duy nhất sau kỳ họp ĐHCĐ vào cuối quý I, đầu quý II năm tiếp theo. Nhưng khi lập BCTC năm, các công ty đã có kế hoạch chia cổ tức. Xét về bản chất, các khoản vốn chủ sở hữu là những khoản công ty được sử dụng lâu dài mà không phải lo trả nợ. Khoản cổ tức này cho dù chưa có quyết định chính thức, mới chỉ có đề nghị từ HĐQT hay sự ước tính của ban lãnh đạo công ty thì các công ty cũng nên ghi nhận đó là một khoản cổ tức phải trả và ghi giảm phần vốn "Lãi chưa phân phối". Làm được điều đó sẽ giúp bảng cân đối kế toán phản ánh chính xác hơn tình tình tài chính, vốn chủ sở hữu của công ty.
Thứ ba, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn và dài hạn dưới 20% vốn vào một công ty nên được báo cáo theo giá hợp lý có thể thực hiện được (giá thị trường) giống như IAS hơn là báo cáo theo giá vốn như VAS hiện nay (mặc dù có sự điều chỉnh nếu giá thị trường xuống thấp hơn giá vốn). Hiện nay, do giá chứng khoán trên thị trường xuống ở mức thấp, NĐT nên xem phần thuyết minh BCTC liên quan đến việc lập dự phòng giảm giá các khoản đầu tư, xem xét việc công ty có lập dự phòng đúng và trung thực theo quy định hay không. Nó có thể ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh nếu công ty có khoản đầu tư tài chính lớn.
Thứ tư, các khoản phải thu, phải trả thương mại không nên bao gồm cả các khoản phải thu, phải trả cho các hoạt động đầu tư tài sản dài hạn (xem phần báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
Thứ năm, giá trị của hàng tồn kho có thể không phải là giá trị hợp lý có thể thực hiện được, do: 1) không được lập dự phòng một cách nghiêm túc theo giá trị thuần có thể thực hiện được, nhất là với tình hình kinh tế suy thoái như hiện nay, nhiều loại hàng hóa giảm giá mạnh, mà vẫn khó bán; 2) chưa tính theo mức độ hoạt động bình thường của DN. Hầu hết các DN vẫn tính giá thành theo phương pháp thực tế, phân bổ chi phí sản xuất chung cho thành phẩm theo chi phí thực tế phát sinh. Việc phân bổ này có thể làm cho giá thành hàng tồn kho biến động lớn giữa các kỳ, không phản ánh đúng giá thành của hàng tồn kho. Theo IAS 2 và VAS 2 về "Hàng tồn kho", các DN cần dùng phương pháp giá thành bình thường. Các chi phí được tính và phân bổ theo mức độ hoạt động bình thường của DN (mức bình quân gia quyền của cả năm), như vậy giá thành sẽ đúng, ổn định hơn và có ý nghĩa hơn cho việc định giá bán.
Thứ sáu, tài sản dài hạn không ghi nhận việc giảm giá do hư hỏng, lạc hậu kỹ thuật. Ví dụ, nếu một tài sản cố định bị hư hỏng hay bị lạc hậu về kỹ thuật không sử dụng được nữa hay bị giảm giá trị, thì theo IAS, công ty phải ghi nhận khoản lỗ này ngay tại kỳ phát hiện ra việc này.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (LCTT)
Với quy định hiện nay, dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh có thể bao gồm cả dòng tiền từ hoạt động đầu tư. Xét công ty A năm 2008 có lãi thuần sau thuế 30 tỷ đồng, chi phí khấu hao 5 tỷ đồng, số dư các tài khoản tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn phải trả không đổi giữa đầu năm và cuối năm, ngoại trừ khoản phải trả cho các nhà cung cấp về một công trình xây dựng là 40 tỷ đồng. Theo IAS 7 và/hoặc VAS 24 và Thông tư 105/2003/TT-BTC về hướng dẫn báo cáo LCTT, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh trên báo cáo LCTT theo phương pháp gián tiếp (được sử dụng rộng rãi nhất bởi các DN) sẽ như sau: lãi thuần sau thuế 30 tỷ đồng; cộng (+) chi phí khấu hao 5 tỷ đồng; trừ (-) tăng trong phải trả thương mại 0 tỷ đồng; dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh 35 tỷ đồng.
Tuy nhiên, có lẽ vì cách hướng dẫn tài khoản phải trả người bán bao gồm cả phải trả cho các nhà cung cấp tài sản dài hạn, vì vậy nhiều công ty đã không tách phần phải trả cho việc mua tài sản cố định ra khỏi khoản phải trả thương mại nên họ đã lập báo cáo LCTT như sau: lãi thuần sau thuế 30 tỷ đồng; cộng (+) khấu hao 5 tỷ đồng; trừ (-) tăng trong khoản phải trả 40 tỷ đồng; dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh âm (-) 5 tỷ đồng.
Như vậy, theo cách 2 mà rất nhiều DN đang thực hiện, khoản phải trả để xây dựng tài sản cố định (thuộc hoạt động đầu tư) lại được ghi lẫn vào hoạt động kinh doanh. Nó làm cho dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh không còn đúng ý nghĩa. Theo bản chất của giao dịch trên, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của công ty cho năm 2008 sẽ là 35 tỷ đồng. Nếu công ty hoạt động bình thường, các NĐT sẽ dự đoán là hàng năm dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của công ty sẽ dư ra khoảng 35 tỷ đồng để có thể tài trợ cho các hoạt động khác mà không cần đến các nguồn tài chính bên ngoài. Tuy vậy, nếu nhìn vào báo cáo theo cách thứ 2, thì dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh năm 2008 là âm 5 tỷ đồng. Điều này có thể làm cho NĐT nghĩ rằng, các hoạt động kinh doanh thông thường của công ty thu không đủ bù chi; chất lượng khoản lãi 30 tỷ đồng của công ty cũng như tình hình tài chính của công ty có vấn đề, không bình thường; nếu tiếp tục như vậy, công ty có thể sẽ gặp nguy hiểm… Thực tế, trong BCTC của các công ty có đầu tư mua sắm tài sản cố định nhiều mà chưa trả tiền, dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh có thể bị âm rất lớn. Chính vì vậy, khi trình bày báo cáo LCTT, tài khoản phải trả người bán và phải thu khách hàng không nên bao gồm những khoản phải thu và phải trả liên quan đến hoạt động đầu tư mua sắm tài sản dài hạn. Nó chỉ bao gồm các khoản phải thu và phải trả thương mại mà thôi.
No comments:
Post a Comment